ba, còn những bản khác chỉ Chúa mới biết chúng ở đâu. Rạch nát phần da
bọc sách à? Rõ rồi. Hắn ta đang tìm kiếm một bản viết tay của
Shakespeare!”
“Thế là rõ rồi nhé, hai đứa,” ngài thanh tra cười. “Tôi vừa mới định tống
tiễn vụ này. Nhưng bắt đầu có nhiều tiến triển, nhỉ?”
“Mọi người có muốn biết,” Patience đột nhiên cất lời, lơ đãng vuốt tay
lên ve áo, “ai là người giết người đàn ông ở dưới hầm?” Tất cả tỏ ra ngạc
nhiên, còn Patience phì cười, “ồ, cháu không thể đưa ra cái tên nào. Nhưng
đây giống như một bài toán đại số có quá nhiều ẩn số. Nhưng có một điều
cháu chắc chắn rằng: kẻ giết người là kẻ đã dùng rìu!”
”Ồ!” Rowe nói, và lại ngả người xuồng cỏ.
“Chúng ta biết gã đã ở phòng làm việc lúc nửa đêm theo bằng chứng thu
được từ chiếc đồng hồ cổ đó. Vào lúc mười hai giờ hai tư, gã đã ở trên lầu
trong phòng ngủ, vẫn đang chặt chém - bằng chứng là chiếc đồng hồ phòng
ngủ bị đập vỡ. Vụ giết người xảy ra vào lúc mười hai giờ hai sáu, chỉ hai
phút sau đó! Và kẻ giết người đã dùng một chiếc rìu - bằng chứng là vết
thương sắc lẹm cắt sâu vào đồng hồ đeo tay và cổ tay của nạn nhân. Điều
này rất rõ ràng.”
“Ta hiểu,” Lane nói, và nhìn lên bầu trời xanh.
“Đúng vậy phải không ạ?” Patience lo lắng hỏi.
Nhưng Lane không nhìn cô; ông như đang muốn thoát khỏi bầu không
khí ngột ngạt xung quanh bằng cách chú ý đến một đám mây kì lạ mới hình
thành.
“Còn một điều khác nữa,” Rowe nói quả quyết. ”Đó là chiếc mắt kính
chúng ta đã tìm thấy trong sảnh ngôi nhà. Đó là bằng chứng khá chắc chắn
rằng Sedlar đã ở đó. Vậy ông ta là nạn nhân hay kẻ giết người? Có vẻ ông
ta là nạn nhân. Cái xác có những đặc điểm nhận dạng tương đồng với một
vài điểm đặc biệt…”
“Trừ phi,” Patience nói, “đó là xác là của Tiến sĩ Ales.”
“Nhưng ai đã đặt quả bom?” ngài thanh tra hỏi.
Quacey bỗng từ đâu lệt bệt bước tới, theo sau là một người đàn ông trong
bộ cảnh phục.