tay của xác chết. Vì vậy, vị khách chính là nạn nhân, xác chết bị bỏ lại
trong hầm!”
“Giảm xuống còn hai,” Lane khô khan nói, “chắc chắn đã làm rõ vấn đề
này, nhỉ, ngài thanh tra?”
“Chờ một phút,” Thumm gầm gừ. “Đừng nhanh nhảu quá thế, cô nàng.
Làm sao mà con biết rằng tiếng chuông thứ hai là do người thứ hai đi vào?
Tại sao không phải do người đàn ông đeo mặt nạ đó đi ra ngoài, bỏ lại ngồi
nhà trống rỗng? Và tiếng thứ ba gây ra bởi người đàn ông thứ hai bước
vào…”
“Không. Bố không thấy điều đó không đúng sao?” Patience kêu lên.
“Chúng ta biết ai đó đã bị giết chết trong nhà vào lúc đó. Đó là ai? Nếu
người thứ hai bước vào sau khi người đàn ông đeo mặt nạ bỏ đi, bố sẽ có
những gì? Một nạn nhân nhưng không có kẻ giết người. Người đàn ông thứ
hai phải là nạn nhân; ông ta không rời khỏi nhà, không có âm thanh từ tiếng
chuông treo trước cửa và tất cả các cửa ra vào và cửa sổ đều bị khóa từ bên
trong. Nhưng nếu ông ta là nạn nhân và ở nhà một mình, ai đã giết ông ta?
Không, đúng như Gordon nói. Người đàn ông bị bỏ lại đó đã bị giết chết,
và kẻ sát nhân chính là người đàn ông đeo mặt nạ.”
“Và chuyện này sẽ đưa cháu đến đâu?” Lane chậm rãi thì thầm.
“Đến kẻ giết người.”
“Đúng!” Rowe kêu lên.
“Con sẽ chỉ cho bố - suỵt, Gordon! Có hai người đàn ông ở trong nhà
đêm đó. Một trong hai, nạn nhân, là một trong hai anh em nhà Sedlar - mọi
thứ quá phù hợp để có thể là một sự trùng lặp ngẫu nhiên. Bây giờ, một
trong hai người đến thăm căn nhà biết chính xác nơi giấu tờ giấy: hắn đến
thẳng ngăn bí mật trong phòng nghiên cứu; kẻ còn lại thì không: hắn chặt
vụn căn nhà để tìm ngăn bí mật đó. Bây giờ ai sẽ là người có khả năng nhất
biết được nơi cất giấu tài liệu?”
“Chính là gã Ales đó - William Sedlar,” thanh tra nói.
“Đúng vậy, thưa bố. Bởi hắn là người tạo ra nơi giấu đồ đó và cất tờ giấy
đi. Vì vậy, người khách thứ hai biết nơi cất đồ nên kẻ đầu tiên là tên cầm
rìu, kẻ không hề biết - bởi thế Tiến sĩ Ales chính là vị khách thứ hai. Điều