qua như thế.
Khi anh trở về với chúng tôi, anh nói, vẫn với ông Dự thẩm.
- Tối hôm ấy, cô Stangerson để tóc thế nào ?
- Tôi không biết, - Ông De Marquet đáp,
- Cái đó quan trọng đấy nhé. Tóc băng đô, rẽ vắt ngang đầu, phải vậy
không ? Tôi chắc chắn đêm hôm ấy, đêm xảy ra thảm kịch, cô làm tóc kiểu
băng-đô !
- Thôi, ông Roulotabille ơi, ông lầm rồi - ông Dự thẩm trả lời - đêm
ấy, cô Stangerson chải tóc xoắn, vén lên trên đầu. Chắc là kiểu tóc cô vẫn
chải quen... hở hết trán, tôi có thể quả quyết với ông. Chúng tôi xem xét vết
thương rất lâu... không có máu dính ở tóc...và không ai đụng tới mái tóc từ
lúc cô bị giết hụt...
- Ông chắc chứ ! Ông chắc cô Stangerson trong đêm bị giết hụt không
để tóc băng-đô ?
- Chắc chắn hoàn toàn - ông Dự thẩm cười tươi - vì rõ ràng tôi còn
nghe ông bác sĩ nói trong lúc tôi xem xét vết thương: "Tiếc quá, cô
Stangerson quen chải tóc vén lên trên trán. Nếu cô chải ra vắt ngang đầu thì
đỡ quá, cú đánh vào thái dương đã bị tóc làm cho yếu đi. Bây giờ tôi xin nói
ông hay, tôi thấy lạ sao ông lại cho là quan trọng.
- Ôi chao ! Nếu cô ấy không để tóc băng đô - Rouletabille rên lên đau
đớn - thì chúng ta đi về đâu ? Chúng ta đi về đâu ? Tôi quyết tìm hiểu.
Và anh chàng phác một cử chỉ buồn não nuột.
- Còn cái vết thương ở thái dương, có ghê gớm không ? Anh cố hỏi
nữa.
- Ghê gớm !
- Rút cục, nó do vũ khí gì gây ra ?
- Cái đó, thưa ông, cái đó là bí mật cuộc thẩm cứu.
- Ông có tìm thấy vũ khí đó không ?
Ông Dự thẩm không trả lời.
- Thế còn vết thương ở cổ ?
Đến đây, ông Dự thẩm đã vui lòng cho chúng tôi biết vết thương ở cổ,
đúng như người ta khẳng định, kể cả ý kiến các bác sĩ, rằng: "nếu hung thủ
bóp cái cổ này thêm vài giây nữa thì cô Stangerson đã chết ngắc."