lúc với nhau. Mặc dù giọng nói và cách sử dụng ngôn ngữ đôi khi rõ ràng
và khác biệt, nhưng người A-Rập ở Li-Băng, ở Xy-ri và ở Ai-Cập đều hoàn
toàn hiểu nhau mà không cần phải phiên dịch.
Cũng nhờ có không khí thoải mái và ầm ĩ này, các hành khách đủ mọi
quốc tịch, trong thời gian lênh đênh trên biển cả, đã trở thành một tập thể
hòa hợp, do đó Ca-man Ta-áp làm quen được với một người ở trong quầy
rượu mà y đã đánh dấu trên bản danh sách. Một giờ sau ở trong quán ăn của
khách, Ta-áp đã cùng ngồi chung một bàn với người bạn mới này. Tên gián
điệp lập tức nhắm “con mồi” và nhanh như chớp anh chàng này đã sa vào
bẫy. Chính gã này, không phải ai khác, đã đưa tên gián điệp vào Xy-ri một
cách dễ dàng.
Đó là một người A-rập vóc dáng vừa phải, xương xương người và có
những nét Do thái cùng màu da cháy nắng. Ông ta mặc âu phục dang trọng,
vẻ bề ngoài không có dấu hiệu gì để mọi người có thể nhận ra đấy là một
tộc trưởng A-Rập chính cống. Tại quày rượu, hai người cùng nhấm nháp tí
rượu; trao đổi với nhau những lễ nghi và tập quán và cùng nhau giới thiệu:
Ca-man A-min Ta-áp, nhà buôn,quốc tịch Xy-ri nhưng sống ở Ác-hen-ti-na
và trên đường về thăm quê cha đất tổ. Tộc trưởng Mác An A! Chỉ một tước
hiệu cũng đủ trình bày nhân vật: Một người A-Rập có phẩm hạnh thuộc
giai cấp phong kiến địa chủ cũ. Mác An A trước đây có một tài sản ở gần
Đa-mát và tuy những cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã làm “lung lay cái
thời phong kiến đẹp đẽ” cổ điển ở Xy-ri, ông ta vẫn còn những nông nô
đang làm việc trên ruộng đất của mình và lương họ lĩnh chỉ là một phần ít
ỏi của thu hoạch. Mác An A cũng là nhà buôn nữa. Sau vài tháng ở châu
Âu, đã đi qua cả Rôm và Pa-ri, ông ta trở về nước trên tàu A-xtô-ri-a:
“Người ta chẳng ai bỏ phí thì giờ ở châu Âu cả. Ở đấy có khối nơi thú vị để
sống vài phút êm dịu”. Ông vừa cười vừa nói với Ca-man Ta-áp.
Ta-áp thấy ngay thuận lợi mà y có thể khai thác ở viên tộc trưởng đang
về Đa-mát này. Ít nói và còn kém tài khi trao đổi những câu chuyện trai gái