lại; đằng sau cậu là bóng đêm, những ngôi sao cao tít tắp trên các tầng trời; trong
khi phía trước cậu lại là ban ngày. “Ở đâu đây?” cậu thều thào.
“Mount Tamalpais,” Flamel nói với vẻ đắc thắng. Kéo Sophie đứng dậy, ông
dìu cô bé đi về phía khoảng trống và ánh sáng. Ngay khi mấy đầu ngón tay của cô
bé rời khỏi, cột đá liền nhạt đi ngay.
“Đi nào,” Shakespeare nói. “Đi ngay đi...”
“Bảo Palamedes...”
“Tôi biết rồi. Ra khỏi đây đi. Ngay đi.”
“Thật là một vở kịch mà tụi cháu ắt hẳn vừa vãn tuồng!” Nhà Giả kim vừa
nói, vừa vòng tay ngang eo Josh, kéo cặp sinh đôi đang đứng giữa những hòn đá
chiếu sáng rực bước vào phong cảnh cỏ cây ngút ngàn ở phía bên kia trái đất.
“Tôi không bao giờ thích viết ra những bi kịch,” William Shakespeare thì
thầm.
Ánh sáng màu vàng óng ánh lịm dần ngay lúc bàn tay Josh rút ra, và mùi
hương cam cùng hương vanilla tan biến mất, thay thế bằng mùi xạ thơm của
Gabriel và duy nhất một Rachet còn sống sót.
Đạo quân Wild Hunt và Thế hệ Kế tiếp, những người bất tử và những kẻ tấn
công con người ngay lập tức nhạt nhòa vào bóng đêm trở lại, không còn để lại gì
đằng sau chúng ngoại trừ bụi đát, những cánh đồng xanh ngát ngập ngụa trong
đống đổ nát hỗn độn lầy lội. Palamedes lảo đảo bước ra khỏi bóng đêm. Bộ giáp
của anh ta bị trầy xước và sứt mẻ, thanh gươm to bản dềnh dàng nứt tách ra làm
hai. Tình trạng kiệt sức làm tiếng nói của anh ta có trọng âm không rõ ràng.
“Chúng ta cần phải ra khỏi đây trước khi cảnh sát đến.”
“Tôi biết một nơi,” Shakespeare nói. “Gần đây lắm, một nhà kho thời vua
Edward II được bảo quản tới mức hoàn hảo.”
Palamedes siết chặt bả vai Đại Thi hào. “Tôi e rằng chẳng được bảo quản
hoàn hảo gì mấy đâu.”