đến nhà ông để nhận quà. Ông không bao giờ quên mua quà cho chúng tôi.
Món quà mà tôi thích nhất là những ông tướng thời xưa mặt đỏ, râu dài, tay
cầm gươm uy nghi, làm bằng bột nếp pha màu. Tôi chỉ từ giã những ông
tướng bột uy nghi kia khi nào các ông đã bị mốc xanh, mốc vàng phủ kín cả
mặt mũi, mũ áo mà thôi
Những năm trước kia đầm Vực ba ba nhiều vô kể. Có những ngày, ba ba
lên bờ phơi nắng. Chúng nằm san sát những mô đất quanh bờ đầm. Hồi đó,
chúng không sợ người như bây giờ. Có những bác thợ cày lên bờ đầm ngồi
nghỉ. Bác thợ cày nhìn thấy một tảng đá mốc thếch bèn ngồi lên ung dung
hút thuốc lào. Mãi lâu sau, thấy tảng đá mình đang ngồi cứ nhúc nhích,
nhúc nhích, bác thợ cày thấy lạ lật lên xem thử. Một cái bụng ba ba vàng
ươm phơi ra.
Bây giờ ba ba ít đi nhiều. Người xóm trại chẳng mấy khi thấy chúng lên
bờ. Chỉ có ông Bộc là biết chúng ở đâu.
Trêu chọc lũ ba ba trong vại sành chán chúng tôi rủ nhau vào nhà. Trong
ngôi nhà nhỏ có một cái cửa ra vào duy nhất, ông Bộc đang ngồi lặng im
trên chiếc phản gỗ. Tôi chợt nhớ lại đêm qua ông đứng trên đê trong đêm
mưa gió. Tôi nhớ đến lời bà tôi nói về ông. “Ông Bộc có tội ư? Ông ấy có
tội gì nhỉ?”. Câu hỏi ấy vang lên trong tâm hồn trẻ thơ của tôi.
Thấy chúng tôi bước vào, ông nói khẽ:
-Hai đứa vào đây. Ông phần chuối cho các cháu đây, ăn đi.
Thằng Mên tham ăn, vặt ngay một quả ăn vội vàng. Tôi huých nó một
cái. Nó kêu lên:
- Ơ! Sao anh đánh em?
Tôi nói: