khác nhau, từ chiếc bao phục đến bao đựng sách. Trước đây, trong quãng
đời đa nghệ của mình, không biết Đào Cam đã sử dụng phát minh quý giá
này bao nhiêu lần.
Giờ, sau khi điều chỉnh các thanh tre, tấm vải đã biến thành một bao đồ
nghề thợ mộc. Mấy phân sau, y bước ra lối đi, lưng hơi còng xuống, ra vẻ
như đang xách chiếc bao nặng.
Lối đi này dẫn đến một đình các nhỏ duyên dáng nằm dưới bóng cây tùng
già. Hai cánh cửa sơn đỏ có đóng đinh đồng đang để mở, bên trong có hai
chú tiểu đang quét dọn.
Đào Cam bước vào, chẳng nói chẳng rằng, tiến thẳng đến chiếc giường lớn
kê sát bức vách bên trong. Y vừa làu bàu, vừa ngồi xổm xuống rồi lấy trong
ống tay áo ra một chiếc thước dây và bắt đầu đo giường.
“Lại thay giường khác à?” một chú tiểu hỏi.
“Các người lo việc của mình đi!” Đào Cam càu nhàu. “Các người có tiền
cho lão thợ mộc khốn khổ này không?”
Cả hai chú tiểu bật cười bỏ đi. Họ vừa ra khỏi là lập tức bác thợ mộc giả
danh liền đứng dậy nhìn quanh.
Căn buồng này không có cửa sổ, trừ một lỗ tròn trổ trên cao ở bức vách
cuối buồng và nó nhỏ đến nỗi một đứa trẻ cũng khó bề chui lọt. Chiếc
giường mà y vừa giả vờ đo đạc được làm bằng gỗ mun khảm xà cừ, được
phủ lụa hoa. Đầu giường có một chiếc bàn nhỏ làm bằng gỗ cẩm lai chạm
trổ, trên đặt một lò sưởi và bộ ấm chén bằng sứ hảo hạng. Trên một bức
vách khác có treo bức tranh lụa cỡ lớn vẽ Quan Thế Âm Bồ tát, còn ở cạnh
một bức vách đặt một chiếc bàn lịch sự, cũng bằng gỗ cẩm lai, trên có đặt
một chiếc lư hương và hai cây đèn nến to. Cuối cùng là một chiếc ghế đẩu
thấp. Mặc dù hai chú tiểu vừa mới quét nhà và thông gió, nhưng mùi hương