một pháo đài, hoặc bị chôn sâu trong một chiếc rương dưới tảng đá giữa
cánh đồng hiu quạnh. Tôi cũng nhớ dường như văn phong của Granville là
của một người Anh.
Nhưng sự thật là ông ta đã viết thư cho giáo sư Child chống lại suy diễn
này. Nếu Granville sống ở Anh, hay nơi nào đó ở châu Au, không những
việc liên hệ với một giáo sư người Anh sẽ nhanh và dễ dàng hơn nhiều, mà
cũng sẽ thật không tự nhiên khi mất công gửi thư qua cả đại dương cho
Child. Nhất là khi chính Granville cũng là người Anh. Ông ta hẳn phải tìm
ra cuốn sách ở đâu đó bên này bán cầu.
Tôi cố lục lọi lại trí nhớ của mình. Chắc chắn phải có những đầu mối khác
nằm trong lá thư đó. Chỉ có điều những đầu mối đó mơ hồ hơn, ít rõ ràng
hơn. Tôi chỉ mới kịp đọc lá thư chết tiệt đó hai lần, và một cách vội vã.
Nhìn lướt qua thì đúng hơn.
Tôi cần lá thư đó. Ben đang ở đâu?
Ở cuối giá sách dành cho Shakespeare, tôi chững lại. Ngay dưới tay tôi,
một cuốn sách bìa mềm lớn lún xuống dưới sực nặng của chính nó. Một
bản sao cuốn Tuyển tập Đầu tiên. Cùng bản in với cuốn tôi tìm thấy trong
phòng đọc của Roz - cuốn sách đã biến mất. Cũng như những bản gốc của
nhà hát quả cầu và thư viện Widener.
Tôi lấy cuốn sách ra, lật giở từng trang; tất cả lề sách đều sạch tinh.
“Lại quay trở lại với kiệt tác thời vua James à?”
Tôi quay ngoắt lại. Ben đứng trước mặt tôi, cười nhăn nhở như một con
mèo Cheshire chết tiệt, trong tay anh ta là tập sách của Chambers cùng tập
giấy ghi chú màu vàng của tôi.
“Lá thư” , tôi hỏi. “Anh có nó không?”
Anh ta đưa tôi tập giấy vàng. Tôi cúi xuống nhìn.
Mặt giấy trống trơn.
15
Tôi ngước mắt lên, sự thất vọng chuyển thành cáu kỉnh. “Anh nói…”
“Đừng có nổi tam bành lên như thế”. Anh ta đưa tay lật các trang giấy lên,
và một tờ giấy rơi ra. Tôi vội chộp lấy.