trong khi vẫn có thể làm việc suốt ngày với Shakespeare và các sinh viên,
trong số đó có cả những người gốc Indian. Sau đó, cánh cửa đã đóng sập
lại, và tôi không nghe được gì thêm. Một sự im lặng chẳng lành, giống như
sự yên lặng của những con chim trước một cơn bão. Khi ra đi, Maxine đã
ném lại cho tôi một lời khuyên giống như những đồng xu được vãi ra trong
lễ cưới, mặc dù nụ cười của cô không giấu được vẻ buồn rầu: Đừng để họ
thuyết phục cô đánh mất đi linh hồn của chính mình.
Giờ đây cô nhìn lên, đôi mắt mở tô ngạc nhiên. “Kate Stanley!” cô khẽ nói.
Tiếng hò reo vang lên từ trong nhà hát, tiếp theo là tiếng đao kiếm chạm
nhau: đôi mắt cô liếc nhìn về hướng đó. “Vào trong này đi,” cô nói. Sau đó
Maxine quay lại, mở cánh cửa cô vừa mới khóa rồi bước vào trong. “Tôi
đang đợi cô,” cô nói trong khi biến mất vào bóng tối phía trong ngôi nhà.
Đến ngưỡng cửa, tôi chợt do dự. Đợi? Ai đã báo cho cô biết tôi sẽ tới?
Tôi liesc nhìn Ben và thấy anh ta thản nhiên nhét khẩu súng của mình vào
túi.
Hít một hơi thật sâu, tôi theo sau cô vào trong nhà.
20
Tôi bước vào trong nhà đứng ngay sát ngưỡng cửa, cảm thấy Ben đang
căng thẳng đứng bên cạnh. “Ai báo với chị là tôi sẽ đến?”
“Roz,” tiếng Maxine vang lên trong bóng tối. “Thế cô nghĩ là ai?” Cô bật
công tắc và ánh sáng vàng ấm áp tràn ngập bên trong căn nhà. “Nếu cô
muốn sử dụng văn khố, cô sẽ phải tới đây”.
Tôi bước thêm vài bước. Ben vẫn đứng im.
Maxine bước đến lần lượt mở những ô cửa sổ có khung hình quả trám ra,
và mùi thơm của hoa hồng thoang thoảng bay vào. “Có chuyện gì vậy,
Kate?”.
“Chỉ làm một vài nghiên cứu thôi mà”.
Cô quay lại, đứng ngay trước một khung cửa sổ, quan sát tôi mà như không
phải vậy, theo cách của người Navajo. “Roz đến gặp cô ở nhà hát Quả cầu
và bị chết ở đó trong khi nhà hát bị cháy cùng với bản Tuyển tập của mình -
vào đúng ngày 29 tháng Sáu, không sớm không muộn hơn. Thứ ba, ngày