“Vậy là tư cách ứng viên của Derby bắt đầu giống với Oxford rồi” Ben nói.
“Khá hơn, về một số mặt”.
“Vì tên của ông ta chăng?” Henry mỉa mai. “Cứ năm chú nhóc ra đời ở
nước Anh thì có một đứa được đặt tên là William”.
“Còn có nguyên nhân địa lí nữa” tôi nói. “Derby sinh ra ở vùng đất phù hợp
với ngữ điệu của các vở kịch; Oxford thì không. Derby cũng dễ mến hơn
Oxford. Có vẻ như ông ta chưa bao giờ chỉ tay gọi bạn bè mình là những kẻ
phản bội, ít nhất là vậy. Hơn nữa, cuộc đời của ông ta diễn ra vài đúng thời
điểm. Không giống như Oxford, ông ta vẫn còn sống trong suốt thời gian
các vở kịch được sáng tác”.
“Nếu Derby hoàn hảo đến vậy, tại sao lại coi ông ta là ứng cử viên ngoài
lề?” Ben hỏi.
Một lần nữa, tôi đã giở tới trang cuối cùng cuốn Tuyển tập mà không tìm
thấy gì. Tôi tuyệt vọng gập nó lại. “Ông ta có mọi thứ ủng hộ mình trừ một
điểm quan trọng hơn cả: một mối liên hệ rõ ràng với Shakespeare”.
“Cho tới giờ” Ben nói.
Tôi nhìn lại biểu tượng của Derby gồm con đại bàng và đứa trẻ đóng trên
bìa cuốn sách. Đó là một mối liên hệ, được rồi. Hoàn toàn hiển nhiên.
Nhưng về cái gì?
Chiếc máy photocopy báo hiệu đã sẵn sàng. Tôi thở dài đặt úp cuốn sách
lên tấm kính và bấm nút.
Ánh đèn của chiếc máy quét dọc theo trang sách khi cánh cửa ra vào bật
mở và cha hiệu trưởng quay trở lại. Đóng cửa, ông đứng khoanh tay trước
ngực giống như một thầy tu võ sĩ thời Trung cổ, quen thuộc với thanh kiếm
không kém gì cây thánh giá. Liếc nhìn bằng khóe mắt, tôi trông thấy Ben
đang đi tới cửa.
“Các vị đã không hoàn toàn trung thực với tôi” ông lên tiếng, đặt một tay
lên cuốn sách. “Tổng giám mục vừa báo cho tôi biết có một kẻ nào đó đang
đốt những bản Tuyển tập ở khắp nơi tại hai lục địa” ông nói tiếp. “Và giết
người để tiếp cận những cuốn sách đó”.
Tôi miễn cưỡng trả lại cuốn sách. “Có kẻ nào đó đang đốt và giết” tôi khẽ
nói, “nhưng không phải chúng tôi”.