lên mùi lạnh lẽo của đá và cái chết. Giống như phần lớn các nhà thờ khác,
tòa nhà này được thiết kế theo hình chữ thập, với thánh đường chính là trục
dài. Chúng tôi đi qua chỗ hai nhánh chữ thập giao nhau, tháp chuông và
mái vòm của nhà thờ vươn cao phía trên chúng tôi, qua những nhà nguyện
mở sang bên trái hoặc bên phải, và cuối cùng đi vào trong thánh thất.
Những hàng ghế cho dàn đồng ca trải dài ra cả hai phía.
Ben chĩa đèn bấm lên trên. Luồng sáng lướt nhanh qua những ô kính màu
của cửa sổ phía đông. Phía dưới, bàn thờ Chúa thếp vàng sáng long lanh
như một hình ảnh hồi tưởng về ngôi đền của vua Solomon. Nhưng đây
không phải là mục tiêu của chúng tôi. Tôi hướng tay anh ta sang trái.
Trên bức tường phía bắc, bức tượng tưởng niệm Shakespeare nằm lơ lửng
trên cao như một hồn ma hiện lên trong một buổi lên đồng, bàn tay bằng đá
của bức tượng cầm chắc lấy cây bút giống một thư kí hơn là một thi sĩ,
vầng trán nhẵn nhụi của ông mang nếp nhăn do tuổi tác nhiều hơn do lòng
mộ đạo. Gần bốn thế kỉ qua, cái nhìn của ông đã giữ kín bí mật của mình.
Ngôi mộ nằm ngay phía dưới, một tảng đá hình chữ nhật được lát mỗi bên
lan can của ban thờ được trang trí, ngăn cách với bàn thờ Chúa.
Chúng tôi trèo qua lan can, đứng quanh tảng đá. Phía trên tảng đá có khắc
vài dòng chữ. Henry đọc lên thành tiếng, giọng nói của ông vọng lại quanh
vòm trần:
Những người bạn tốt hãy vì Chúa mà dừng
Quấy rầy cát bụi yên nghỉ nơi đây
Sẽ được ban phước lành những ai để yên phiến đá này
Đáng nguyền rủa thay những kẻ động đến di cốt ta.
Không được cùng một đẳng cấp với Romeo và Juliet hay Hamlet. Nhưng
vẫn là những dòng thơ mạnh mẽ, khó giải thích về cách gieo vần, hay cách
diễn tả lời nguyền. Một lời ban phước, mãi mãi gắn liền cùng một lời
nguyền rủa.
Có thật đây là một lời nguyền không? Ophelia đã nghĩ như vậy. Bà ta đã
viết gì nhỉ? Chúng tôi đã phạm tội với cả Chúa trời và con người. Trong
nhà thờ tối đen, tôi chợt rùng mình ớn lạnh.