Tôi bắt đầu hiểu ra. “Bản nào?”
“Bà ấy không biết. Một bản cũ”.
“Bảo bà ấy xem xem”.
Tại ngôi nhà trong trang trại của mình ở Arizona, bà Jiménez đã đi kiểm tra
cuốn Kinh thánh. Tựa người vào bàn, gần như nín thở, tôi nhìn lên phía
trên lò sưởi vào đôi mắt đã chết của Ophelia trong bức tranh của Millais.
“Trang tựa đề” Athenaide nói, “hãy đọc đi. Xuất bản năm 1611 và thường
được biết đến là Bản của vua James”.
Tôi nắm chặt lấy cạnh bàn cố đứng vững.
“Kiệt tác thời Jacobean” Matthew nói, đôi mắt ông sáng lên như chợt vỡ lẽ.
Đúng là nó; không thể khác được. Theo đúng nghĩa đen, vì Jacobean có
nghĩa là “Jamesian” trong tiếng Latinh. Kinh thánh của vua James, đã trở
thành ngạn ngữ, là kiệt tác duy nhất từng được một hội đồng viết ra. Một
trong những việc làm đều tiên của vua James sau khi lên ngôi là yêu cầu
các giám mục của mình phải làm gì đó để cải thiện cái mà nhà vua coi là
tình trạng đáng buồn phiền của kinh thánh bằng tiếng Anh. Có quá nhiều
bản khác nhau, theo suy nghĩ của hoàng thượng, và không có bản nào trong
số đó cập nhật những tư liệu mới nhất bằng tiếng Hebrew và tiếng Hy Lạp.
Tự coi mình là một học giả và thi sĩ, nhà vua muốn có một bản Kinh thánh
vừa chính xác vừa ấn tượng – thích hợp để đọc to lên từ bục giảng kinh.
Một cuốn Kinh thánh mà tất cả các cộng đồng thần dân của nhà vua có thể
chia sẻ.
Các giám mục đã làm việc tốt hơn nhiều so với mong đợi của bất cứ ai.
Trong ba thế kỉ, Kinh thánh của vua James đã ngự trị trong các buổi cầu
nguyện của nhà thờ nói tiếng Anh. Đó là lí do chính giải thích vì sao văn
phong của Shakespeare vẫn không xa lạ ở nước Anh cũng như các thuộc
địa của nó cho tới thế kỉ hai mươi, khi những bản dịch khác xuất hiện và số
người đi nhà thờ giảm mạnh. Cho tới tận thời gian đó, những người đi lễ
nhà thờ đã nghe đọc Kinh thánh của vua James mỗi Chủ nhật trong các
buổi cầu nguyện, và từ vựng cũng như nhịp điệu của tác phẩm này đã tìm
đường thâm nhập sâu và thói quen ngôn ngữ và suy nghĩ. Những câu tựa
như Phải, cho dù ta đi qua thung lũng bao phủ bóng tối của cái chết… Hãy