kiểu chữ thứ hai là b. Mật mã sử dụng hai kiểu chữ này theo từng nhóm
năm chữ cái liền nhau: Cứ năm chữ cái của văn bản làm nền sẽ tương ứng
với một chữ cái trong thông điệp bí mật. Ví dụ: dãy aaaaa có nghĩa là “a”.
và dãy aaaab có nghĩa là “b”. Đó là cách mà các chữ cái được in hay viết,
chứ không phải bản thân những chữ cái đó. Như thế, bạn sẽ tránh gây ra sự
chú ý do những câu ngớ ngẩn đại loại như: “Cô Mabel sẽ ăn một con gà đỏ
vào thứ Năm, khi cô đi picnic ở bãi biển Oxford” , những câu như thế chắc
chắn sẽ làm bất cứ ai đang đi tìm một mật mã đoán ra.
Lấy một mẩu giấy bỏ đi, tôi viết ra câu đầu tiên của bài Thánh thi, chia các
chữ cái thành nhóm năm chữ cái một, thay vì chia thành từ God is our
refuge and strength.
G o d I s/ o u r r e/ f u g e a/ n d s t r/ e n g t h
Phía dưới, tôi chuyển mỗi chữ cái không đánh dấu thành a, và những chữ
cái được tô đậm là b. Kết quả thu được không có ý nghĩa gì cả. Tôi bèn làm
ngược lạ, dịch các chữ cái tô đậm là a, và các chữ cái không đánh dấu là b.
Từ đây việc giải mã khá đơn giản, sử dụng chìa khóa mật mã tôi đã lấy từ
Internet:
G o d i s = b a a b a = T
o u r r e = a b a a a = I
f u g e a = a b a b b = M
n d s t r = a b b a b = O
Matthew và tôi đều biết chữ cái cuối cùng sẽ phải là gì, nhưng chúng tôi
vẫn làm nốt công việc giải mã:
e n g t h = a b b a a = N
“Timon of Athens” Matthew nói. “Ở trang kí tên của bài Thánh thi. Bằng
mật mã 1623 của Bacon”.
Timon là một trong những vở kịch ít được biết đến của Shakespeare, tràn
đầy buồn phiền và sự cay đắng, kể về một người đàn ông đi từ chỗ vui vẻ
cho đi tất cả tiền bạc của mình nhằm giúp những người khác hạnh phúc,
đến chỗ khinh miệt cả loài người vì tính biển lận. Đó cũng là tên một
những khu mỏ mà Granville sở hữu.
“Một trong những khu chúng sở hữu” bà Jiménez khẽ nói.