rõ trên khuôn mặt tôi, vì Henry đột ngột kéo tôi tách ra khỏi đám đông.
Chúng tôi đang ở gần lối ra, tiếng động ầm ĩ của đám đông nhỏ dần, và tôi
nghe thấy tên mình được gọi vọng tới. Mặc kệ, tôi rảo bước nhanh hơn, khi
hai người mặc áo vét màu vàng của đèn neon thuộc Cảnh sát thành phố
bước tới đứng chắn trước khung cửa kép, khiến tôi không còn lựa chọn nào
khác ngoài vệc quay trở lại.
Đứng ở đầu đối diện của lối ra là thám tử, chánh thanh tra Sinclair. “Nếu cô
không phiền,” ông ta lên tiếng, “tôi có thêm vài câu hỏi nữa trước khi cô
đi”. Giọng ông dịu dàng dễ nghe, nhưng rõ ràng không phải là một lời thỉnh
cầu. Đó là mệnh lệnh.
Miễn cưỡng, Henry và tôi theo ông ta quya trở vào nhà hát và đi vào một
trong những dãy hành lang ở tầng trệt gần sân khấu. Một người phục vụ trẻ
mang trà đến cho chúng tôi. Tôi cố nuốt vài ngụm thứ chất lỏng âm ấm
trắng đục như sữa có vị sàn sạn như bột phấn. “Có lẽ cô muốn kể cho
chúng tôi nhiều hơn về cuộc gặp gỡ với giáo sư Howard chiều này”.
Sinclair gợi chuyện.
Với chiếc quần đen, áo Jacket đen khoác bên ngoài chiếc áo sơ mi cổ tròn
màu xanh ngọc, viên thanh tra có thể nổi bật lên như một người cực kì cuốn
hút nếu xuất hiện cách xa nơi đây chỉ một dặm tại Boston; còn tại London
ông ta cũng chỉ đủ hợp thời trang để hòa nhập vào đám đông. Tuy vậy, ông
ta vẫn tạo cho người khác cảm giác đứng trước một người đặc biệt xuất sắc
đang khéo léo ẩn mình. Sẽ khó qua mặt được viên thanh tra, tôi thầm nghĩ,
và cố thử làm điều đó có thể sẽ rất nguy hiểm.
Tôi sẽ là kẻ ngốc bị lôi ra vặn hỏi thêm. Đằng nào cũng thế, tôi đối mắt ông
ta một cách e dè. “Tôi sẽ bắt đầu từ đâu đây?”.
“Tốt nhất nên bắt đầu từ đầu”.
5
Chiều hôm đó, tiếng cười của tôi đã vang lên trong dãy hành lang dưới.
“Các vị, hãy nghĩ tới Stephen King,” tôi la lối. “Không phải là Steve
McQueen. Vì Chúa hãy nhớ cho chúng ta đang ở trong một câu chuyện
ma”.