Tôi vẫn không nghe thấy tiếng động nào. Tôi thận trọng nhô ra. Ông ta
không hề cử động, trừ việc mở mắt ra.
“Tôi biết cô vẫn ở đó, cô bé thân mến. Nếu cô cần phải xử sự một cách trần
tục, cô vẫn có thể làm mình trở nên có ích”. Ông ta giơ tờ giấy đang cầm
trong tay trái lên. “Một lá thư. Của Will gửi cho Will… Em có Will của em,
thêm một Will nữa, và nhiều Will hơn cần thiết… Nhưng chữ viết thời
Jacobean thật khó chịu. Tôi không thể nào đọc được một dòng ở giữa”.
Một lá thư! Tôi đã không thấy nó, trong số các bản thảo.
“Tôi có thể” tôi nói. Điều tôi cần là Henry để tôi ra ngoài tới gần cửa hang,
vị trí mà tín hiệu do thiết bị cài trong chiếc trâm phát ra có nhiều cơ may
được ai đó phát hiện ra.
“Con dao hay chiếc xilanh?” ông ta hỏi. “Cô chắc chắn phải mang một
trong hai thứ đó theo. Chắc là con dao”.
Chết tiệt.
“Dù thế nào đi nữa, để nó lại, đi ra tay không và xòe rộng bàn tay ra”. Ông
ta nhướng một bên mày lên và giơ tờ giấy ra.
Bị giằng xé giữa thận trọng và cả quyết, tôi bước ra khỏi khe hẹp, chỉ giấu
con dao khuất khỏi tầm nhìn. Hơi nóng phả vào người tôi và ập lên những
tảng đá. Sau đó tôi ngửi thấy mùi kim loại của mưa ở sa mạc và nghe thấy
tiếng sấm ầm ĩ. Tôi bước tới rìa vách đá, tựa vào phía đối diện với Henry
và nhìn xuống. Phía dưới sáu mươi mét, đáy khe núi đầy cát đã biến mất
dưới dòng nước trắng xóa điên cuồng chảy cuộn xoáy từ bờ bên này qua bờ
bên kia, kéo theo những thân cây và những mảnh đổ vỡ. Tim tôi thắt lại.
Không ai có thể đi ngược khe núi lên. Cho tới khi dòng nước cạn đi, có
nghĩa là nhiều ngày nữa.
Đối diện chúng tôi, vách đá nhuộm màu hồng dưới ánh sáng cuối ngày mùa
hè. Xa xa về phía trái, bên trên rặng núi, những làn mưa bàng bạc đặc lại
thành một tấm màn xám xịt. Ở rìa gần của vùng xám này, những đám mây
trải dài hết tầm mắt tôi. Trời vẫn chưa mưa ở đây, nhưng cơn bão đang đi
qua hướng này. Không khí ướt sũng hơi nước, và những cơn gió nặng nề,
ẩm ướt thổi vào hang. Gió mùa hè đã xuất hiện sớm hơn.