Bi-ốt-ghe quỳ xuống như một cái máy và lẩm bẩm làm dấu. Nhưng rồi
chưa đầy hai tuần lễ sau, vào một đêm thanh vắng, lòng say mê nghiên cứu
của anh lại trỗi dậy. Anh lần mò thắp đèn lên và lại lấy cái bình cổ cong ra,
đặt những lọ hóa chất xuống cạnh đấy để pha pha chế chế.
Trong lúc anh đang đổ nước cất vào một cái ống đo thủy tinh chưa kịp
lấy cái đũa thủy tinh khuấy lên thì bỗng cánh cửa kẹt mở: lão chủ xúng
xính trong bộ quần áo ngủ đã cầm đèn bước vào. Lão nghiến răng ken két,
nói:
- Hôm quay lại đây, mày đã thề trước Chúa rồi cơ mà!
Bi-ốt-ghe không nói không rằng. Anh hiểu rõ điều gì sẽ đến với anh.
Anh vội thu dọn mấy cái quần áo cũ của mình bỏ vào cái túi vải rồi cũng
chẳng buồn chào lão chủ nữa, anh mở cửa đi thẳng ra phố. May mà lúc này,
trời đã gần sáng.
Bi-ốt-ghe đi lang thang ngoài đường, lòng anh thật rối như canh hẹ.
Lúc này biết về đâu bây giờ? Chẳng lẽ về nhà ăn bám vào bố mẹ mà bố
mình cũng chẳng có đủ cơm gạo mà nuôi. Đi làm thì không ai mượn. Nghe
lão chủ hiệu Xoóc-nơ nói thì hẳn chẳng một hiệu thuốc nào dám mượn
mình.
Bi-ốt-ghe đang đi thẫn thờ ngoài đường chợt thấy cỗ xe ngựa đang
lững thững đi. Qua khung cửa xe, Bi-ốt-ghe nom rõ hoàng thân Phôn Phiu-
xten-be. Anh nhớ lại đã có lần anh đem thuốc đến lâu đài của ông ta. Đúng
là một tòa lâu đài lộng lẫy, xung quanh mọc đầy hoa, trong lâu đài có tới
mấy chục buồng mà một buồng ở đó ít ra cũng rộng bằng cả một hiệu thuốc
Xoóc-nơ.
Cỗ xe đang lăn bánh bỗng đứng sững lại. Người đánh xe dù quất mạnh
đến mấy, hai con ngựa lồng lên mà xem ra cỗ xe vẫn không nhúc nhích
được. Thì ra một bên bánh xe bị sa lầy vào một vũng bùn.
Bác đánh xe xuống xe xắn tay áo vào bắt bánh xe nhưng vẫn không ăn
thua gì. Vợ chồng Phôn Phiu-xten-be rón rén mở cửa phía bên kia bước ra.