thông gió... nhất nhất đều cần đến điện. Nhưng khi tàu ngầm nổi lên mặt
nước, máy điện sẽ biến thành máy phát điện để nạp điện cho ắc-quy và khi
tàu lặn xuống lại đến lượt ắc-quy cung cấp điện cho các loại máy móc,
động cơ, khí tài, thiết bị... trên tàu.
Giôn Hin-đớc-len gần như nằm bò trên bản thiết kế một loại động cơ
hợp nhất dùng cho tàu ngầm. Anh đánh dấu chỉ vào một số chi tiết máy rồi
ngồi thẳng người lên quan sát kỹ. Đó chẳng qua cùng chỉ là máy đi-ê-den
Giôn nhớ lại trước đây khi kỹ sư Đức Ru-đôn-phơ Đi-ê-den phát minh ra
loại máy đi-ê-den chạy bằng dầu ma-dút thì người ta đã nghĩ ngay tới việc
cho tàu ngầm chạy bằng loại động cơ này. Cũng năm 1906, chiếc tàu ngầm
đầu tiên trên thế giới chạy bằng động cơ đi-ê-den của Nga ra đời tại xưởng
Ban-tích. Chiếc Mi-nô-ga này dài tới hơn ba chục mét, đặc biệt có két nước
đặt ở phần cuối làm cho tàu lặn được sâu nhưng thiếu sót của nó là cả máy
điện công suất 70 mã lực lẫn máy đi-ê-den công suất 120 mã lực đều quay
một trục chân vịt.
Sau đó năm năm, chiếc A-cu-la của Bút-nốp ra đời nhờ đặt ba máy đi-
ê-den và một máy điện mà tàu có thể chạy xa một nghìn hải lý và hoạt động
một mình được hai tuần lễ liền.
Dùng dầu ma-dút để chạy máy đi-ê-den trên tàu ngầm rõ ràng là rẻ
tiền, lại an toàn nhưng phải cái chỉ dùng được khi tàu chạy trên mặt nước,
khi lặn tàu phải dùng động cơ điện.
Nhưng ở loại động cơ hợp nhất này thì máy đi-ê-den lại dùng một loại
chất đốt đặc biệt vô cùng dồi dào lấy từ nước biển để chạy máy khi lặn. Chỉ
khi tàu ngầm nổi lên một nước, “máy điện tích” mới có thể phân tích nước
biển để rút lấy ô-xy và hy-đrô chứa các loại két riêng biệt khi nào tàu lặn
xuống nước mới cho chạy vào động cơ. Lúc ấy hy-đrô sẽ cháy trong ô-xy,
sinh ra hơi nước làm quay chân vịt.
Dùng loại động cơ này vẫn có khuyết điểm là mỗi khi lấy “chất đốt”
tàu vẫn cứ phải nổi lên mặt nước. Như vậy vẫn cứ dễ dàng bị tàu đối
phương phát hiện và tiêu diệt.