của mình sắp được lệnh chế tạo một loại vũ khí bí mật mang ký hiệu S.A.1.
Nhưng khi nhận được bản đồ án thiết kế từ Công ty Rai-xơ chuyển sang,
qua Bộ Hải quân, Cớc-út mới rõ: đó là một loại tàu ngầm chiến đấu loại
nhỏ.
Việc này chứng tỏ: quan điểm của đô đốc Pát-téc-xơn đã thay thế
trong Bộ tham mưu hải quân. Trước đó, đa số chuyên gia quân sự đều cho
rằng: nước nào có hạm đội mạnh thì có thể làm bá chủ trên mặt biển. Do
đó, họ thi nhau đóng các tàu lớn với những pháo lớn đủ mọi cỡ.
Pát-téc-xơn lại cho rằng: không chỉ hạm tàu lớn, mà cần phải có nhiều
loại tàu phối hợp chặt chẽ với nhau mới có thể giành được thắng lợi quyết
định trên mặt biển.
Theo ý Pát-téc-xơn thì: hạm tàu lớn trên mặt biển rất dễ làm mồi ngon
cho tàu ngầm. Bao vây hải cảng đối phương, tàu ngầm còn có thể hợp đồng
tác chiến sau này với không quân, với hạm tàu mặt nước, tiếp tế cho các
căn cứ bị địch phong tỏa, hoặc các hạm tàu ở giữa đại dương.
Nhìn tên tác giả Giôn Hơn-len trên bản thiết kế S.A.1 Cớc-út nhớ lại:
cách đây hai mươi lăm năm, chính Hơn-len đã đóng chiếc tàu ngầm đầu
tiên của mình. Tàu trang bị một thủy lôi và do một người quay trục chân vịt
điều khiển. Mười sáu năm sau, nhà phát minh Ai-rơ-len đó đã đóng một
chiếc tàu ngầm khác chạy bằng động cơ dầu hỏa, đại bác đặt ở mũi tàu đạn
bắn bằng không khí ép có thể bay xa tới bốn mươi mét.
Nhưng lần này, nhìn vào bản thiết kế mới S.A.1, chẳng riêng gì Cớc-út
mà tất cả các kỹ sư đóng tàu đều phải công nhận Hơn-len đã rút kinh
nghiệm các cuộc thí nghiệm, chế tạo tàu ngầm trong vòng một trăm năm,
để tạo ra một chuyển biến mới. Mà chuyển biến này chỉ có thể nổ ra vào
thời đại mà ngành luyện kim đã có thể luyện ra được nhiều loại vỏ thép
đóng tàu chắc chắn, trong ngành chế tạo máy cũng đã xuất hiện máy hơi
nước và động cơ đốt trong, cùng với động cơ điện. Cớc-út thấy Hơn-len đã
giải quyết khá thông minh vấn đề động cơ cho loại tàu ngầm này: thả nổi