lên trán ông, và đằng sau ông, qua khuôn cửa ấy, là bóng tối vô tận mượt
như nhung của đêm hè.
Còn chuyện này nữa, khi các đài truyền hình sắp sửa lặn vào những
chương trình đêm khuya nhầy nhụa thì cái tivi bị tắt phụt đi rất cương quyết
và ông Ðại tá nhận được một cốc trà thảo dược mà cô Vavasour đã pha
riêng cho ông. Ông bảo tôi ông rất ghét cái của ấy - “Nhưng này, cẩn thận
đừng nói gì nhá!” - những lại không dám từ chối. Cô Vavasour đứng ngay
cạnh coi cho ông uống. Cô cam đoan là nó giúp ông ngủ được; ông thì âm
thầm tin là ngược lại, nhưng vẫn không phản đối, và uống cạn cốc trà với
vẻ mặt tận số đến nơi rồi. Có một đêm tôi thuyết phục được ông đi với tôi
ra quán Pier Head Bar làm một chầu trước khi đi ngủ, nhưng đó là một sai
lầm. Ông trở nên bồn chồn khi ở bên tôi - tôi không trách ông được, vì tôi
cũng thế - và cứ loay hoay hết với cái tẩu lại đến cốc bia và liên tục len lén
vén cổ tay áo lên để xem giờ ở chiếc đồng hồ đeo tay. Mấy dân địa phương
ngồi ở đó trố mắt nhìn chúng tôi, và chỉ một lúc thì chúng tôi ra về, im lặng
đi bộ trở lại nhà Tuyết Tùng dưới bầu trời tháng Mười mênh mang đầy
trăng sao và những đám mây tơi tả. Hầu như đêm nào tôi cũng uống cho
đến lúc say ngủ, hoặc định như vậy, với sáu bảy ly thứ cô nhắc Napoleon
hảo hạng trữ trong một cái chai bố ở trong phòng. Tôi đã định mời ông một
giọt thứ rượu ấy, nhưng rồi lại thôi. Cái tưởng nửa đêm tán chuyện với ông
Đại tá về cuộc đời và những thứ liên quan đến nó chẳng hấp dẫn chút nào.
Đêm thì đài, mà mức độ bình tĩnh của tôi thì ngắn.
Tôi đã nói đến thói uống rượu của mình chưa nhỉ? Tôi uống như cá vậy.
Không, không phải như cá, cá có uống đầu, chúng chỉ thở thôi, kiểu thở
riêng của chúng. Tôi uống như một người mới thành góa bụa - có ông góa
không nhỉ? - một người ít tài, và tham vọng còn ít hơn, đã hoa râm theo
năm tháng, ngơ ngác, lạc đường, và đang cần được an ủi và cảm giác khoái
lạc ngắn ngủi của quên lãng trong men say. Tôi sẽ dùng ma túy nếu tôi có
chúng, nhưng tôi không có, và cũng không biết kiếm chúng cách nào.