“Thế đấy!” cô Bun nói, gõ một cái xuống mặt bàn và ngẩng lên rạng rỡ
nhìn cô Vavasour trước, rồi đến ông Đại tá, và cả hai đều bước một bước về
phía cô, như thể họ sắp sửa luồn tay xuống dưới khuỷu để nhấc cô đứng lên
thật.
Chúng tôi bước ra ngoài, vào hoàng hôn màu đồng đỏ của chiều thu.
Những cơn gió mạnh thổi dọc Phố Ga, lay động những ngọn cây khiến lá
khô rụng bay lả tả. Có tiếng quạ kêu sống sít. Năm đã gần tàn. Sao tôi lại
nghĩ cái gì đó mới mẻ sẽ đến thay thế nó, chứ chẳng phải chỉ là một con số
in trên tờ lịch? Chiếc xe của Cô Bun, một kiểu xe nhỏ mum múp màu đỏ,
bóng loáng như một con bọ rùa, đỗ trên lối vào trải đá dăm bên trong cổng.
Nó rền rĩ trĩu xuống trên bộ giảm xóc khi cô Bun ấn mình lọt vào cửa xe,
đầu tiên là nhét bộ mông đồ sộ xuống ghế, rồi đến nhấc theo hai chân, rồi
nặng nhọc ngả phịch xuống lưng ghế bọc nệm giả da hổ với một tiếng rên
rung bần bật. Ông Đại tá kéo Cánh cổng mở ra cho cô rồi đứng ra giữa
đường làm hiệu cho cô ra với những động tác vung tay như trên sân khẩu.
Mùi khói xả của chiếc xe, mùi biển, mùi lá mục của mảnh vườn mùa thu.
Một thoáng hương vị của hư nát và quên lãng. Tôi không biết gì hết, không
biết gì hết, tôi chỉ là một con khi đột già nua. Cô Bun vui về bấm còi xe và
vẫy tay, gương mặt nhòn nhọn của cô nhoẻn Cười với chúng tôi qua lần
kính cửa và cô Vavasour vẫy tay đáp lại, không vui vẻ gì, rồi chiếc xe rồ
máy chạy đi, lắc lư leo qua cái cầu nhà ga rồi khuất dạng.
“Thật tội nghiệp chưa,” ông Đại tá nói, xoa xoa tay rồi đi vào nhà.
Cô Vavasour thở dài.
Chúng tôi sẽ không ăn tối nữa, bữa trưa kéo quá lâu và đã thật mệt mỏi.
Cô V. vẫn còn bị kích động, tôi có thể thấy thế, vì những lời qua tiếng lại
với bạn mình. Khi ông Đại tá theo chân cô vào bếp, chắc mẩm sẽ có bữa trà