cái bút ấy, nó thật dễ chịu, trơn và êm, chỉ thỉnh thoảng mới bị rỏ mực.
Không biết ông lấy đâu ra cái bút này? Tôi chẳng biết nói gì. “Không cần
đâu,” ông bảo. “Tôi chẳng dùng đến nó bao giờ, anh nên giữ lấy mà dùng,
mà viết sách.” Rồi ông vội vàng bỏ đi, coa xoa hai bàn tay khô trắng già
nua. Tôi để ý thấy chưa phải cuối tuần mà ông đã mặc cái gilê vàng rồi.
Cho đến giờ tôi cũng vẫn không biết ông có phải là một cựu quân nhân thật
không, hay chỉ giả vờ thế. Đó là một câu hỏi nữa mà tôi không đám hỏi cô
Vavasour.
“Bà ấy mới là người tôi nhớ” cô nói, “Connie - bà Grace ấy - đúng vậy.”
Hình như tôi trợn hết cả mắt lên, và cô lại ném cho tôi một cái nhìn thương
hại nữa. “Không bao giờ là ông ấy đâu, với tôi ấy,” cô nói. “Anh cũng
không nghĩ thế, phải không nào?” Tôi nghĩ đến cô đứng bên dưới tôi ngày
hôm ấy dưới gốc cây, khóc nức nở, mái đầu tròn đặt trên mâm đĩa tròn của
bờ vai nhìn từ trên xuống, chiếc khăn tay vo tròn trong tay. “Ồ không” cô
nói, “không bao giờ là ông ấy cả.” Và tôi cũng nghĩ đến cái hôm đi chơi và
ăn ngoài trời, đến cảnh có ngồi sau lưng tôi trên bãi cỏ và cũng nhìn về chỗ
tôi đang hau háu nhìn và thấy những thứ chẳng phải để cho tôi nhìn tí nào.
Anna chết trước lúc rạng ngày. Nói thật, lúc ấy tôi đã không có mặt ở đó.
Tôi đã bước ra ngoài thềm nhà an dưỡng để thở hít thật sâu bầu không khí
óng ánh mà vẫn tối đen của ban mai. Và lúc ấy, thật bình thản và mệt mỏi,
tôi đã nhớ lại một khoảnh khắc nữa, lâu lắm rồi, ở ngoài biển mùa hè năm
ấy tại Ballyless. Tôi đã đi bơi một mình, không biết tại sao, cũng không
biết Chloe và Myles lúc ấy ở đâu; có thể chúng đã đi đâu đó với bố mẹ
chúng, đó có thể là một trong những chuyến đi cuối cùng của họ, có thể
chính là chuyến cuối cùng cũng nên. Khắp trời sương giăng bảng lảng,
không có làn gió nào khuấy động mặt biển khơi, chỉ có những đợt sóng nhỏ
lăn tăn vỗ vào bờ theo một đường cheo chéo, hết đợt này đến đợt khác, như
một đường tà áo cứ bị lật đi lật lại mãi trong tay một cô khâu đầm. Chỉ có