trời. Bụng nàng cương tròn một cục, cứng nhắc, căng cả đai lưng của bộ
váy. Đã có lần nàng bảo mọi người sẽ tưởng là nàng có mang mất - “Ở cái
tuổi này mới chết chứ!” - và chúng tôi đã cùng cười phá lên, không dám
nhìn nhau. Bọn hải âu vẫn làm tổ trên mấy cái ống khói nhà chúng tôi bấy
giờ đã trở ra biển rồi, hoặc di cư rồi, nào biết là chúng đã làm gì. Suốt cả vụ
hè buồn thảm ấy, chúng đã lượn lờ trên mái nhà cả ngày, giễu cợt những ý
định của chúng tôi muốn giả đò rằng mọi chuyện đều ổn cả, chẳng có gì
trục trặc hết, thế giới vẫn tiếp tục như thường. Nhưng nó ở đó, chồm hỗm
trong bụng nàng, lùm lùm kềnh càng thằng cu De’Ath - cái Chết hài nhi,
vẫn đang phổng dần lên trong người nàng, đợi ngày khai hoa mãn nguyệt.
Rồi thì chúng tôi cũng vào nhà, chẳng còn biết đi đâu được nữa. Nắng
trưa chói chang ùa vào qua cửa sổ bếp và mọi thứ đều tỏa sáng lạnh lẽo như
thủy tinh, giống như tôi đang nhìn gian phòng qua một cái ống kính máy
ảnh. Hình như tất cả những đồ vật thân quen ấy - những lọ trên giá, xoong
chảo trên bếp lò, cái thớt cắt bánh mì với con dao cưa - đều đang lúng túng
không dám nói năng gì, đang cố phớt lờ sự có mặt đột ngột trở thành lạ lẫm
và buồn tủi của chúng tôi. Như vậy đấy. Tôi đã khổ sở nhận ra rằng từ nay
trở đi nó sẽ như thế đấy: dù nàng có đi đâu, cái tiếng lanh canh không nghe
thấy của bộ chuông hủi
cũng sẽ đi trước nàng. Trông bà khỏe chưa kìa!
Chúng sẽ réo lên. Sao thế nhỉ, bọn tôi chưa bao giờ thấy bà mạnh giỏi như
vậy! Và nàng, với nụ cười rạng rỡ của nàng, thì đang làm mặt dũng cảm, tội
nghiệp nàng làm sao.
Nàng đứng giữa phòng, vẫn khăn choàng áo khoác, hai tay chống nạnh,
mắt nhìn quanh với vẻ khó chịu. Lúc ấy trông nàng vẫn đẹp, đôi gò má cao,
nước da trắng trong và mịn như giấy lụa. Tôi vẫn đặc biệt ngưỡng mộ
khuôn mặt nhìn nghiêng trông như tượng Hy Lạp của nàng, nét mũi như tạc
bằng ngà chạy thẳng từ trán xuống.