sầm lại sau lưng, như thể cho tôi một cái tạt tay vậy. Tôi đã làm gì để nó
phải khó chịu thế? Có những lúc nó đỏng đảnh ương bướng chẳng khác gì
mẹ nó.
Thế rồi đột nhiên, không thể ngờ được, đằng sau đám lổn nhổn những
ngôi nhà như của quỷ lùn của Khu Hoa Leo, tôi nhận ra lối đi dẫn vào nhà
Duignan, vẫn hằn đầy vết bánh xe, thong thả lượn giữa những rào táo gai
rậm rịt và những đám cây mâm xôi bụi bặm. Làm sao lối đi ấy có thể sống
sót được bao nhiêu tàn hại của xe tải và cần cẩu, bao nhiều đào bới của cả
người lẫn máy móc? Ở đây, cái thằng bé là tôi hồi ấy đã sáng nào cũng
chân trần bước theo lối đi này, tay xách cái can rúm ró, đến mua sữa cho
ngày hôm ấy, và nếu không phải chính lão Duignan đứng bán thì cũng là bà
vợ hông to nhẫn nhục mà hồ hởi của lão. Mặc dù trời sáng đã lâu nhưng khí
đêm ẩm ướt mát mẻ vẫn còn bám trên mặc sân sỏi, nơi đám gà mái lúc cúc
qua lại giữa những đám phân xanh xanh trắng trắng của chính mình. Lúc
nào cũng có con chó bị xích nằm dưới gầm một cái xe ngựa nghiêng càng ở
đó, dò dẫm nhìn theo khi tôi bước qua, nhón gót tránh phân gà; và con ngựa
kéo xe lông trắng xỉn thế nào cũng xuất hiện, gác đầu lên chốc cánh cửa
nửa vời của trại bò và liếc tôi với một con mắt vừa thú vị vừa nghi ngờ
dưới lọn bờm lòa xòa trước trán có màu trắng kem ngả khói hệt màu hoa
kim ngân. Tôi không thích gõ của cái trại bò ấy, chỉ sợ bà mẹ lão Duignan,
một mụ già lùn tịt vuông vức với hai mẩu chân như gắn ở hai góc dưới hình
vuông, hễ thở hổn hển và có thói thè lè cái lưỡi tái nhợt ra để liếm môi
dưới, cho nên tôi sẽ đứng chờ trong bóng râm tim tím của trại bò cho đến
khi lão Duignan hoặc bà vợ xuất hiện và cứu tôi khỏi phải giáp mặt với mụ
già gớm guốc kia.
Duignan là một tay lẻo khoẻo ngờ nghệch tóc thưa màu cát và lông mày
không nhìn thấy đâu. Lão mặc sơ mi vải bố không cổ thời ấy đã là cổ lỗ sĩ
lắm rồi, và quần thì chẳng ra hình thù gì, hai ống nhét cả vào hai chiếc ủng
cao cổ bê bết bùn khô. Trong kho sữa, khi đong hàng cho tôi, lão thường