tôi sẽ phải gửi quần áo đi giặt ở bên ngoài. Tôi hỏi cô có còn nhớ tôi không.
“Ồ, có chứ,” cô nói ngay không chần chừ gỉ cả, “có chứ, tất nhiên rồi, tôi
vẫn nhớ anh.”
Tôi nghe tiếng chân Claire lên cầu thang. Cơn giận của nó đã xẹp hết rồi
và nó đi với những bước chân lê lết nặng nề. Chắc chắn nó cũng mệt vì
những cuộc cãi vã như tôi. Cửa phòng mở hé nhưng nó không vào, chỉ hỏi
qua khe cửa xem tôi có muốn ăn gì không. Tôi vẫn chưa bật đèn trong
phòng, và luồng sáng hình thang đổ xuống mặt vải nhựa trải sàn từ ngoài
đầu cầu thang nơi nó đang đứng là một lối đi dẫn thẳng về thời thơ ấu, của
nó và của chính tôi nữa. Lúc nó còn bé và vẫn ngủ trong phòng này, trên cái
giường này, nó vẫn thích nghe tiếng đánh máy chữ của tôi từ phòng làm
việc ở dưới nhà vọng lên. Cái âm thanh ấy thật dễ chịu, nó bảo thế, giống
như đang nghe thấy chính những suy nghĩ của tôi, mặc dù tôi không biết tại
sao âm thanh suy nghĩ của tôi lại có thể làm ai đó dễ chịu được; hoàn toàn
ngược lại thì có, nhẽ ra tôi phải nói thế. Chao ôi, lâu lắm rồi còn gì, những
ngày ấy, những đêm ấy. Dù sao, nhẽ ra nó đã không nên gào lên với tôi như
thế ở trong xe. Tôi không đáng bị quát tháo như thế. “Bố ơi,” nó lại lên
tiếng, có vẻ dè dặt hơn nhiều, “bố có muốn ăn tối không ạ?” Tôi không đáp,
và nó bỏ đi. Tôi sống trong quá vãng, có phải không nào.
Tôi quay mặt vào tường, tránh luồng sáng lọt vào phòng. Đã co đầu gối
lên rồi mà hai bàn chân tôi vẫn thò ra ngoài chân giường. Trong lúc lùng
tùng dưới mớ chăn nệm - từ xưa đến giờ tôi vẫn rất vụng với chăn nệm - tôi
bỗng ngửi thấy cái mùi chua chua âm ấm của chính mình. Trước khi Anna
ngã bệnh, tôi vẫn coi thân xác mình là cái gì đó kinh tởm nhưng vẫn đáng
yêu, cũng như hầu hết mọi người - tôi muốn là họ coi thân xác họ như thế,
chứ không phải thân xác tôi - vẫn dung chịu mà không thế cũng không
được, những sản phẩm nhân thế đáng buồn mà không thể chối bỏ được của
tôi, những thứ bài tiết đủ loại, những hơi những khí thải ra cả trước lẫn sau,
những mỡ những mủ, những gầu những vảy, rồi mồ hôi mồ kê và những