dụng cụ duy nhất mà chú cần. Đó là một dụng cụ chạy từ dây cua-roa bắt
vào ròng rọc do một động cơ ở phía ngoài xưởng đóng tàu điều khiển. Bất
cứ khi nào chú Oscar muốn bật hay tắt động cơ thì chú lại phải di chuyển
một quãng khá xa để ấn công tắc.
Tôi không có ý kiến gì về việc các máy móc ngày nay hiện đại hơn rất
nhiều, hoặc các chuyên gia kỹ thuật sẽ nói gì về cách sắp xếp thiếu khoa
học như thế. Tôi cho rằng, những dây chuyền sản xuất ngày nay sẽ đưa
người thợ mộc vào một quy trình chặt chẽ hơn, nhanh hơn, đơn giản hơn
rất nhiều so với việc anh ta cứ phải di chuyển từ chỗ cái cưa đến chỗ cái
công tắc hàng chục bận mỗi ngày.
Nhưng tôi cũng có cảm giác nghi ngờ về lợi ích của các dây chuyền
công nghệ hiện đại đối với bản thân người công nhân. Có thể chú Oscar đã
nhìn thấy tác dụng của việc đi đi lại lại như thế - biết đâu nó có thể giúp
chú có thời gian để suy nghĩ về những việc mình đang làm, tìm ra những ý
tưởng mới mẻ và hợp lý cho sản phẩm của mình.
Tất cả những điều ấy phản ánh qua hiệu quả công việc. Trong lúc làm
việc, chú Oscar luôn ngân nga khe khẽ một giai điệu nào đó. Tôi cố căng óc
ra để nhớ xem mình đã từng nghe nó ở đâu chưa. Nhưng tôi dám chắc một
điều rằng đó không phải là một điệu nhạc diễu hành.
Tôi hỏi chú Simmy về những giai điệu đó và chú bảo rằng, đó là một
bài Thánh ca. Đồng thời chú cũng cảnh báo tôi rằng, đừng có dại dột mà
hỏi chú Oscar về điều ấy, trừ phi tôi muốn nghe một bài thuyết giáo về việc
làm thế nào để cứu rỗi linh hồn mình. Tôi ngoan ngoãn nghe theo lời
khuyên của chú Simmy và tránh xa chủ đề này, nhưng càng nhìn chú Oscar
làm việc, tôi càng nhận thấy rằng sự thuyết giáo của chú sâu sắc là lẽ
đương nhiên, đó là những bài ca chưa được hát, ẩn bên trong đôi bàn tay
đang biến hóa linh hoạt trên từng súc gỗ.