khi đó mà thôi, tôi mới phải quyết định xem mình nên bẻ lái, tiếp tục tiến
lên hay dừng lại. Càng trưởng thành, nỗi khát khao được khám phá thế giới
trong tôi càng mãnh liệt. Tôi tò mò muốn biết tương lai của con người
trong cái thế giới mà tôi đang sống sẽ như thế nào.
Dì tôi thường bảo rằng: “Cái gì đến, sẽ phải đến”. Đó là một câu quán
ngữ mà dì rất tâm đắc, vì dì luôn tin rằng có một bàn tay vô hình đưa đẩy
số phận của con người. Nhưng tôi khám phá ra rằng, khi lênh đênh trên
biển, con người dường như bị cô lập hoàn toàn với thế giới xung quanh.
Tôi không thể đoán trước được chuyện gì sẽ xảy ra khi mình rời khỏi
đất liền. Và tôi cũng không thể biết trước được khi nào một con tàu sẽ xuất
hiện và thổi một hồi còi báo hiệu, cũng như việc con thuyền của tôi sẽ va
phải một khúc gỗ nào đó trôi nổi trên biển. Ngay cả những nhân tố thuộc về
tự nhiên - gió, sóng biển hay thủy triều - cũng rất thất thường, chẳng màng
gì đến cái gọi là dự báo thời tiết của con người.
Đường bờ biển ở phía xa với những vịnh nhỏ và những mũi đất thoắt
ẩn thoắt hiện, trông như thùy của những chiếc lá phong. Đâu đó, một vài
con hải âu khẽ lượn trên bầu trời mùa hạ và chao xuống như những bông
tuyết mùa đông rơi trên mặt biển. Những chú chim bơi ra khỏi mũi thuyền
của tôi, uốn cong lưng lại và bất thình lình lặn xuống, rồi lại thình lình xuất
hiện ở một chỗ khác trên mặt nước, và cứ thế, liên tục ngụp lặn.
Nếu như có một quy luật cho những vận động na ná thế này, tôi nghĩ
mình không thể tìm ra được, và tôi cũng phải thú nhận rằng mình chẳng thể
đoán biết trước những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Đó không phải là một cái nhìn
báng bổ thần thánh, trái với những gì tôi được dạy ở trường vào mỗi chiều
thứ sáu.
Thú thực, lúc đầu tôi cũng hơi mâu thuẫn về điều này. Cô giáo môn tín
ngưỡng của tôi, một giáo viên tốt bụng đã để lại trong tôi ấn tượng đặc biệt,
nói rằng có một đấng tối cao đã kiến tạo ra vũ trụ, và có một vị thần thông