- Tư Liệt ăn nói nghe ngộ thật. Ăn cũng ngộ mà nói cũng ngộ. Chú
muốn gì?
- Tôi muốn uống một “xị” rượu, để quên mùi trần thế trước khi
chịu hình phạt.
- Dễ quá! Vậy mà nãy giờ chú nói xa nói gần, nói cái gì mà thánh
nhân anh hùng. Rượu đây. Uống cái này rồi nhớ uống luôn cái thứ kia
nghe cha nội! Gọi là... Hơi men khiến tôi ngà ngà say. Tôi uống nhanh
cái chén đựng “cái thứ kia” rồi đi tắt ngang rừng tràm, về xóm Bảy
Ngàn. Ai hỏi câu gì, tôi đều nín lặng. Sự nín lặng không là vàng, là bạc,
là chì nhưng là thứ xấu xa nhất. Đoán chừng hai ba hôm sau cậu Hai sẽ
cho người đến xóm Bảy Ngàn loan tin ấy để hạ nhục, tôi rút vào U
Minh qua tận nơi giáp ranh với rạch thầy Quơn mà cất chòi, đốt lửa.
Lửa cháy rừng để lộ ra một giồng cao ráo, đào xuống là gặp mạch
nước ngọt. Thế là đại phú do thiên, tiểu phú do cần. Tôi làm giàu, trở
thành điền chủ là nhờ tai nạn ấy và nhờ thời vận.
Thuật chuyện tới đây, ông hội đồng Liệt lồm cồm ngồi dậy, rót
nước trà đậm, rồi nằm trở xuống chiếc gối sành. Động tác của người
ghiền á phiện “quanh quẩn mãi với một vài ba dáng điệu”, vì thiếu am
tường về kỹ thuật chuyên môn tôi khó tả lại. Tôi từng nghe vài bạn quả
quyết rằng: qua cách khui hộp nhựa, cách cầm tiêm, ta có thể phán
đoán nội tâm của người bạn ghiền. Nãy giờ, dường như ông hội đồng
Liệt bộc lộ nhiều cảm tình đối với tôi hơn trước. Mắt ông nheo nheo,
“tay cầm tiêm như Triệu Tử cầm kích, mặt nhìn đèn như ông Khổng
xem thơ, khói lên nghi ngút như Quan Công đốt núi” ngửi mùi khói
thơm. Ông cầm cái que sắt, nướng chút gì trên ngọn đèn rồi vo viên,
nhét chất đen đen láng láng ấy vào lỗ của dọc tẩu. Bỗng dưng, tôi mỉm
cười, sực nhớ cái chất đen pha trong chén nước mà ông đã uống hồi
xưa để thoát ra khỏi cái chuồng khỉ của cậu Hai.