- Mình bỏ tàu lá, nghe bác.
- Quăng đi, để làm gì cho nặng chiếc xuồng.
- Hồi nãy gió thổi mạnh, tàu lá này đong đưa, mấy lá nhỏ tua túa
ra, như răng cây lược thưa. Người ta hát ví: Gió đẩy đưa, lược thưa
uốn éo.
- Cháu nhớ dai quá. Nay mai sanh con đầu lòng, hát câu đó cho
con nít nghe, êm tai, nhưng hát như vầy mới đúng: Gió đẩy đưa, đọt
dưa uốn éo, không phải lược thưa. Đọt dưa hấu, lúc mới trồng, bò lan
ra, ngóng lên trời, gặp gió tết nhè nhẹ. Cảnh đó coi hay lắm. Bây giờ,
nghỉ lâu rồi, để bác chèo cho giãn gân cốt. Cháu ngồi dưỡng sức, lát
nữa làm công việc khác, khá nặng nhọc.
Trong phút giây, Hai Cần nhớ tới những việc mà chàng rể nào
cũng đảm nhận, khi thăm viếng bên vợ, lúc chưa làm lễ cưới. Gặp gì
làm nấy. Nào bửa củi, gánh nước, làm cỏ vườn, xay lúa, hoặc gặt hái,
tùy mùa. Phía sau lái, lão Ngượt ra sức chèo, rõ ràng là lòng tốt của
bực cha chú, đối với một thanh niên đơn chiếc, không họ hàng.
- Chừng bao lâu nữa tới Tràm Trốc? Lo cơm chớ, sợ bác đói bụng.
Đủ gạo, củi, nước mắm, mấy con khô lóc và rượu.
- Sách có chữ “nhập giang tùy khúc” tùy doi vịnh, gió nước.
- Hết gió nước xuôi ngược, còn gì mà lo nữa đâu?
- Còn chớ. Trước mặt mình, đằng kia, không còn là con sông trời
xanh. Nó thẳng băng. Cái kinh xáng của Tây hồi xưa, dùng xáng múc.
Ngặt nghèo lắm. Lát nữa, tới đó coi thử. Ở đây nước lình bình, lớn
cũng như ròng.
- Để cháu chèo thay bác.