- Bác thấy sao?
- Bác muốn khiêng lên bờ.
- Bác ngồi sau lái, nghỉ ngơi, cháu ra trước mũi, quỳ gối khom
xuống, lấy tay mà vẹt.
Lão Ngượt mỉm cười, bí mật:
- Bác ngồi, thêm nặng. Chi bằng bác đi bộ lại nhà... đàng gái, báo
tin trước cho họ yên tâm, gặp cháu, họ khỏi ngỡ ngàng, ban đêm, họ
thắp đèn đuốc, vài người gần nhà, qua chơi cho ấm áp.
Hai Cần mừng thầm. Là người mang dòng máu “lên rừng xỉa
răng cọp, xuống biển hốt trứng sấu”, anh nhứt quyết trổ tài cho nhà
gái biết mặt. Chưa ai dám lập kỳ công ở khu vực giáp nước ác hại này.
Cây trên rừng, thiên hạ còn lần hồi đốn sạch, cỏ ở U Minh có thể lần
hồi nhổ hết, huống gì mớ lục bình nhẹ cân, lêu bêu không căn cội gì
trên mặt nước. Ta nắm chóp từng giề mà quăng bỏ, như con nít đùa
giỡn.
Trước khi lên bờ. Lão Ngượt căn dặn:
- Nhà ông Khâm khỏi đám lục bình này, bên kia chừng mười công
đất, phía tay trái. Một căn hai chái, trước sân trồng bốn cây dừa lùn.
Cả nhà chờ cháu tới ăn cơm chiều, nghe không. Đêm nay có trăng
sáng.
Cởi áo ra, Hai Cần tới mũi xuồng, khom lưng, vẹt lục bình, ném
từng giề, quăng lên cao và thật xa. Xuồng nhích tới nhanh chóng. Mặt
trời còn khá cao. Sức anh còn thừa. Hồi lâu, xuồng đến một phần ba
vùng giáp nước. Anh lau mồ hôi trán, bụm hai tay, múc nước uống.
Bóng dáng lão Ngượt khuất dần, khuất dần trên bờ kinh, năm sáu
chiếc xuồng được vác đường bộ, kẻ mũi người lái, thêm trẻ con phía