tan vỡ trên bãi bùn, bọt sóng vung ra, rơi lấm tấm trên ngọn mấy cây
bần đã bị ngập mất gốc mất cành.
Nhà của lão Tư Hiếm day mặt theo hướng gió xuôi, cửa cái vẫn
mở; lão bắc ghế ngồi sát hàng ba, làn khói thuốc tuôn thoăn thoắt
vươn mạnh lên bầu trời quá thấp.
Nhà của tôi bên này đâm ngang lưng gió, mưa hắt thỉnh thoảng
đưa từng luồng ướt át. Tôi vói tay khép cửa lại. Chắc chắn lão thừa
hiểu rằng tôi đã về nhà. Đúng ra, tôi phải đích thân đến gặp lão từ hồi
trưa, liền sau khi rời khỏi nhà ông Henri Nhan. Nhưng gặp để nói
chuyện gì? Kế hoạch trở về Mỹ Lâm của ông Henri Nhan chưa có gì rõ
rệt, quan tư Ca Rê sẽ áp dụng chiến thuật nào? Vào ngày giờ nào? Tất
cả thuộc về phạm vi bí mật quân sự. Biết chừng đâu quan tư Ca Rê
hứa ẩu để làm vừa lòng một “nhân vật bổn xứ”; lực lượng Lê dương
cần được sử dụng ở những trường hợp thiết yếu; “đại sự” hơn. Vả lại,
lão Tư Hiếm chẳng còn tài sản nào ở Mỹ Lâm cả. Một mình lão tài nào
chống nổi, nếu muốn chống lại.
Trận mưa dai dẳng bên ngoài đem tới cho tôi một duyên cớ để trì
huỡn việc gặp mặt lão Tư Hiếm. Lật qua lật lại mấy trang giấy hồi
sáng, tôi hút nối đuôi một lượt ba điếu thuốc rồi viết sạch sẽ cho xứng
đáng với số tiền nhận trước năm trăm đồng.
“Ông Henri Nguyễn văn Nhan sanh ngày... năm... Thân phụ là cụ
Nguyễn văn Mổ, người làng Đức Mỹ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam,
đậu Cử nhân kỳ thi Ất Mão tại trường Tứ Quảng, sung Cẩm Y Vệ Thị
Lang, sau thuyên chuyển vào đất Gia Định nhận chức Vệ úy trong cơ
binh của quan Tổng đốc Nguyễn văn Mỗ. Nhơn thành Gia Định thất
thủ, ngài Vệ úy treo ấn từ quan, ẩn sĩ qui điền không chịu hợp tác với
tân trào, về mở trường dạy học tại Phú Cường, Bình Dương. Dịp này
cụ sánh duyên cùng bà Vương Thị... hạ sanh được một đứa con trai