đây, giữa sự hỗn loạn của các đội quân đang chuẩn bị chiến đấu, của những đàn ngựa hí
vang và những kỵ sĩ hò hét, cụm nhà tranh quét vôi trắng của ngôi làng nhỏ vẫn có vẻ thanh
bình và cách biệt. Taran phóng qua những cánh đồng bao quanh bởi cây độc cần và linh sam
cao lớn. Lòng trĩu đầy kỷ niệm, cậu ghìm ngựa lại trước một túp lều quen thuộc với ống
khói đang tỏa khói nghi ngút báo hiệu một ngọn lửa ấm áp bên trong. Cánh cửa mở ra và
một ông già tráng kiện, người chắc nịch, khoác một chiếc áo nâu thô sờn, bước ra. Mái tóc
và bộ râu màu xám sắt của ông được tỉa ngắn; mắt ông xanh biếc và vẫn còn hết sức tinh
tường.
“Xin chào,” ông cất tiếng gọi Taran, và giơ lên một bàn tay to tướng bám đầy đất sét khô.
“Cháu đã rời khỏi đây khi còn là một chàng trai lang thang, và quay trở lại thì đã trở thành
một vị chiến tướng rồi. Về tài năng điều binh khiển tướng của cháu thì ta đã được nghe
nhiều. Nhưng ta hỏi điều này: Cháu có còn nhớ kỹ năng bên chiếc bàn quay gốm của ta
không? Hay là ta đã bỏ phí công sức để dạy dỗ cháu?”
“Xin chào, ông Annlaw Thợ Gốm,” Taran đáp, nhảy từ trên lưng Melynlas xuống và thân
ái siết chặt tay ông thợ gốm già. “Đúng là ông đã phí công sức rồi,” Taran cười, theo ông đi
vào trong lều, “bởi vì ông thầy này có một chú học việc hậu đậu lắm. Cháu thiếu tài năng,
nhưng trí nhớ thì cháu không thiếu đâu. Những điều ít ỏi mà cháu học được thì cháu vẫn
chưa hề quên.”
“Hãy chỉ cho ta xem nào,” ông thợ gốm thách thức, vốc một nắm đất sét ướt từ một cái
máng trộn bằng gỗ lên.
Taran mỉm cười buồn bã và lắc đầu. “Cháu chỉ dừng lại để chào ông mà thôi,” cậu trả lời.
“Giờ thì cháu bận rộn với gươm đao, chứ không phải là đĩa bát sành sứ nữa.” Tuy thế cậu
vẫn ngừng lại một lát. Ngọn lửa lò chiếu sáng những chiếc giá xếp hàng dãy đồ sứ, những
bình đựng rượu thanh nhã, những vại nước được chế tạo một cách khéo léo và trìu mến.
Cậu vội đón lấy nắm đất sét lạnh và đặt nó lên chiếc bàn mà Annlaw vừa quay tít. Cậu không
có nhiều thời gian, Taran biết vậy; thế nhưng trong khi món đồ thành hình dưới bàn tay
mình, cậu liền gạt gánh nặng của sứ mệnh kia sang bên. Tháng ngày như quay ngược trở lại
và chỉ còn tiếng kêu ro ro của chiếc bàn quay rồi hình dáng của món đồ sứ hiện ra từ nắm
đất sét vốn không có hình thù gì.
“Giỏi lắm,” Annlaw khẽ nói, rồi thêm vào, “Ta đã được nghe chuyện những người thợ
rèn và thợ dệt khắp Vùng đất Tự do đã làm việc để rèn vũ khí và may y phục cho đội quân
của cháu ra sao. Nhưng chiếc bàn quay của ta không thể rèn được một thanh gươm hay dệt
được một tấm áo choàng cho người chiến binh, và đất sét của ta chỉ nặn được cho những
mục đích hòa bình mà thôi. Than ôi, bây giờ thì ta không thể giúp đỡ được cháu điều gì.”
“Ông đã dạy cho cháu nhiều điều hơn bất kỳ ai khác,” Taran trả lời, “và cháu quý trọng
điều đó hơn cả. Cháu không được sinh ra để làm một chiến binh; thế nhưng, nếu cháu
không cầm gươm lúc này, thì trên Prydain sẽ không còn chỗ cho những món đồ thủ công
đẹp đẽ và hữu ích nữa. Và nếu cháu thất bại, tất cả những gì cháu học được từ ông sẽ mất
hết.”