giữa ông ấy và công việc của ông. Đúng thế, Annlaw đã thổi hồn vào khối đất sét và trao cho
nó sự sống của chính mình. Nếu ta cũng có thể học được cách làm như vậy...”
Gurgi không đáp lại. Con vật mệt mỏi đã ngủ say. Taran mỉm cười và kéo áo choàng đắp
lên vai Gurgi cho kín hơn. “Hãy ngủ ngon đi,” cậu nói. “Có lẽ chúng ta đã đi đến đoạn kết của
cuộc hành trình rồi.”
Annlaw đã giữ đúng lời. Trong những ngày sau đó, người thợ gốm dạy cho Taran những
kỹ năng cũng quan trọng không kém gì cách nặn đất sét: làm sao để tìm được loại đất thích
hợp, đánh giá chất lượng và độ nhẵn mịn của chúng, chọn lọc, nhào trộn. Gurgi cùng làm tất
cả mọi việc với Taran, và chẳng mấy chốc bộ lông rối bù của nó đã bám đầy bụi, đất bùn và
sạn men đến nỗi nom nó y như một cái bình đất chưa được nung gắn trên hai cẳng chân
khẳng khiu.
Mùa hè ấy trôi qua nhanh chóng và vui vẻ, và càng ngắm người thợ gốm làm việc bao
nhiêu Taran càng sửng sốt bấy nhiêu. Ở chiếc máng nhào trộn, Annlaw giã đất mạnh mẽ
hơn cả ông Thợ Rèn Hevydd gõ búa lên đe; và ở chiếc bàn quay, ông làm ra những món đồ
tinh xảo với sự khéo léo vượt cả bà Thợ Dệt Dwyvach. Mặc cho cậu thức dậy sớm bao nhiêu,
Taran vẫn luôn thấy ông thợ gốm đã dậy trước và lại bắt tay vào làm việc rồi. Annlaw không
biết mệt mỏi là gì, thường miệt mài làm việc bên chiếc bàn quay của mình đến nỗi ông trải
qua hàng đêm không ngủ và cả ngày không ăn uống gì. Ông thợ gốm rất ít khi chịu lặp lại
một mẫu hoa văn nào, và luôn cố gắng tạo ra những thứ đẹp hơn cả những gì ông đã làm ra
từ trước.
“Nước cũ không phải là thức uống tốt,” Annlaw nói. “Công việc cũ mòn thì còn tệ hơn.
Và kẻ nào đi lại bước chân cũ của mình thì chỉ kết thúc ở chính nơi hắn đã bắt đầu mà thôi.”
Chỉ đến khi sang thu thì Annlaw mới để cho Taran thử tay nghề ở chiếc bàn quay một
lần nữa. Lần này thì chiếc bát mà Taran nặn được không còn méo mó vẹo vọ như cái trước
nữa.
Annlaw ngắm nghía nó thật kỹ, gật đầu, rồi bảo cậu, “Cháu đã học hỏi được đôi chút đấy,
chàng trai Lang Thang ạ.” Thế nhưng, trước vẻ kinh hoàng của Taran, Annlaw ném cái bát
vào máng trộn. “Đừng sợ,” ông thợ gốm nói. “Khi cháu nặn được một cái bát đáng giữ lại thì
nó sẽ được đem vào lò nung.”
Mặc dù Taran e rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra, chẳng bao lâu sau Annlaw đã
đánh giá là một món đồ cậu nặn ra, một chiếc bát nông hình dáng giản dị nhưng cân xứng,
đã sẵn sàng để đem nung. Ông đặt nó, cùng với những nồi niêu bát đĩa khác mà ông đã nặn
cho dân Làng Isav vào một cái lò nung cao hơn và sâu hơn cả bễ rèn của Hevydd. Trong khi
Annlaw bình thản quay đi làm nốt những món đồ gốm cho dân Làng thì Taran mỗi lúc một
nóng ruột hơn cho đến khi cậu cảm thấy như chính mình đang bị nung trong lò vậy. Nhưng
cuối cùng, khi các món đồ đã được nung xong và đã nguội đi, người thợ gốm liền lôi cái bát
ra, xoay xoay nó trong tay trong khi Taran nín thở chờ đợi, rồi đưa một ngón tay dính đầy
đất sét lên gõ vào nó.