Bỗng, kỵ sĩ sau cùng hú vọng một tiếng dài, vừa ngồi xuống lại đứng lên
như cũ, tay giật cương, ngựa quay đầu, thoáng mắt ngựa trở lại trước mặt
người áo trắng.
Trong tay kỵ sĩ, có một ngọn thương bằng sắt, màu đen, quanh thân
thương có một lá cờ quấn kín.
Đến nơi, kỵ sĩ vung tay, ngọn thương bay tới, cắm phập xuống mặt
đường, lá cờ tháo ra, phất phơ theo gió phô rõ hình thức tam giác, cờ màu
trắng, trên cờ có năm chữ:
- Quan Đông Vạn Mã Đường.
Rồi kỵ sĩ lại kéo cương một lượt nữa, ngựa quay đầu, phóng vó theo
đoàn.
Người đi, cờ còn đó, cờ tắm ánh dương quang, cờ màu trắng, chữ màu
đỏ, hai màu phản chiếu, kiêu hùng dưới ánh dương quang.
Người đi đường trố mắt nhìn cảnh tượng hiện ra, thán phục tài cỡi ngựa
của kỵ sĩ, tài phóng thương, họ thán phục đến quên cả reo hò tán thưởng.
Chợt, có ai đó bật chuổi cười dài, tràng cười dứt, một câu nói tiếp theo:
- Quan Đông Vạn Mã Đường! Khá lắm! Đáng chú ý đến lắm!
Ngọn đèn lồng trước khung cửa hẹp đã tắt.
Một người đứng bên dưới ngọn đèn, chính người này ngẩng mặt mà
cười, âm thanh rung chuyển không gian, cát vàng bám nơi lồng đèn lay
động, rơi xuống đầu hắn, mặt hắn.
Khi nào hắn để tâm đến cái vặt vạnh đó?
Hắn, là Diệp Khai, hắn không hề dừng chân ở những cái vặt vạnh như
vậy. Hắn vẫn mặc chiếc áo đêm qua, vừa rách, vừa hôi hám, một mùi hôi
đặc biệt, không tên, hỗn hợp bởi mùi người, mùi bụi cát, mùi gió sương,
mùi cây cỏ mục.
Hắn đứng đó, không buồn ái ngại cho những người quanh hắn phải ngửi
cái mùi đặc biệt của hắn. Mà chừng như hắn muốn cho người ta ngửi cái
mùi của hắn, thấy ai bịt mũi, là hắn thích vô cùng.
Nơi một lỗ thủng trên áo, đóa hoa cúc tàn đêm qua không còn nữa, thay
vào đó là một đóa châu hoa.