Trái lại bà Án Ba trong “Thừa Tự” rất điển hình cho hạng đàn bà tháo vác, keo
kiệt (nhiều tham muốn), thương con nhưng thương vì mình chứ không vì hạnh
phúc của con (kém lòng nhân và thiếu phán đoán), sống vì dư luận nhiều hơn vì
mình (nhiều óc hợp đoàn). Bà định gả Cúc, con riêng của bà cho người con
chồng chỉ vì muốn có chút nén hương sau khi chết và để đánh tan tất cả những
điều dị nghị của thiên hạ về sự đối đãi của bà với các con chồng.
Và giáo Hạnh, trong tiểu thuyết ngắn “Hạnh”, một thanh niên nhút nhát, mơ
mộng cũng rất tiêu biểu cho con người nhút nhát vì suy nhược (rất nhiều cảm
xúc tính nhưng kém hoạt động tính).
Một tiểu thuyết gia tiền bối, cụ Hồ Biểu chánh, cũng đã tạo ra nhiều nhân vật rất
“sống”, dù chưa nổi bật hẳn để thành nhân vật điển hình. Tiểu thuyết của ông
thiên về việc kể chuyện nhiều hơn là tả tình, tức là ít phân tách tâm lý, tuy nhiên
phần nhiều các nhân vật ông đã nêu ra đều diễn đúng tính tình của họ qua những
hành vi và thái độ. Có lẽ nhờ chất “thực” này mà hiện nay độc giả (nhất là độc
giả miền Nam) vẫn thích xem tiểu thuyết của ông.
Nhiều tác phẩm có tính cách nội quan như: hồi ký, tiểu thuyết tự thuật, ký ức
v.v… cũng có thể tồn tại với thời gian mặc dầu trong những văn phầm thuộc
loại này tác giả thường vô tình hay “gia vị” phần nào, nhưng tựu trung nó cũng
phản ảnh đặng một cá tính có thực. Vì lẽ đó những tác phẩm của P. Loti, của bà
Colette được nhiều người mến chuộng. Những tác phẩm tác giả tự đem mình ra
để phân tách như bộ “Essais” của Montaigne, “Pensées” của Pascal vẫn trường
tồn cũng vì lý do nói trên. Trong văn học cận đại Việt Nam, chúng ta thấy có
Nguyễn Tuân (Nguyễn Tuân trong thời tiền chiến) là nhà văn phô bày “con
người” của mình một cách thành thực trong nhiều tác phẩm của ông. Qua những
tác phẩm như “Thiếu Quê Hương”, “Một Chuyến Đi”, “Chiếc Lư Đồng Mắt
Cua” người đọc hiểu rõ tâm hồn của tác giả một cách không mấy sai chạy, một
tâm hồn ngờ vực nên đâm ra khích bạc, bất mãn hoàn cảnh hiện tại nhưng vì
tâm thần suy nhược lại bất định nên chỉ biết đối phó bằng cách trốn đời, thích xê
dịch mà ông ta gọi là “phiêu lưu”.
Tâm lý học và môn kịch:
Nhà soạn kịch vần phải thấu hiểu tâm lý học hơn nhà tiểu thuyết. Một quyển
tiểu thuyết có khuyết kém về tâm lý, đôi khi có thể nhờ câu văn bay bướm hoặc