Giáo dục có thể can thiệp vào việc rọi sáng những đề mục, nguồn gốc của tri
giác, và vào việc để ánh sáng lọt vào ống kính. Khi chúng ta chú ý vào những đề
mục ấy, chúng ta kéo dài cái thời gian để ánh sáng lọt vào ống kính và cũng rọi
cho những đề mục ấy được thêm sáng tỏ. Nó tập chúng ta nhận xét về đề mục ấy
lâu dài hơn, nó cũng giúp chúng ta nhận biết để mục ấy rõ hơn và do đó nó giúp
trí nhớ chúng ta ghi lại những tri giác ấy, để những tri giác khỏi chóng phai.
Vì thế, chúng tôi nói rằng người ta không thể luyện tập để làm tăng trí nhớ,
nhưng người ta có thể tập sử dụng trí nhớ một cách khéo hơn, đắc lực hơn.
Người thường so sánh trí tưởng tượng với tấm bảng gắn màu của các họa sĩ. Có
người được có một tấm bảng gắn màu thật to, gồm đủ những màu sắc khác
nhau, người khác chỉ có một tấm bảng vừa phải, lại có người chỉ được một hộp
đựng màu nhỏ như các em học sinh.
Hạng người trước có đủ phương tiện để tạo nên những bức tranh một cách dễ
dàng. Họ không cần phải trộn màu vì họ đã sẵn có đủ màu sắc. Hạng giữa vẫn
còn nhiều phương tiện nhưng ít ra họ phải biết pha trộn màu. Hạng sau cùng chỉ
có thể tạo nên những bức tranh xấu xí vì họ thiếu cả những màu sắc căn bản.
Đối với hạng sau này giáo dục có thể dạy cho họ cách dùng một ít màu cốt yếu
mà họ có để vẽ nên những bức tranh khả dĩ xem được. Ở đây cũng thể, giáo dục
không biến đổi hẳn những miếng màu trên bảng gắn màu của họ sĩ, nó chỉ có
thể chỉ cho họa sĩ biết cách sử dụng một cách hay hơn những miếng màu mà họ
đã có.
Có thể sánh óc phán đoán với chiếc đồng hồ. Người biết lẽ phải là người được
có một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ chạy thật đúng, hoặc nếu có xê xích thì cũng sai
chạy trong một vài sao (giây). Người khác chỉ nhận được chiếc đồng hồ hạng
thường có thể chạy sai cả năm mười phút trong một năm. Một người thứ ba
nhận được một chiếc đồng hồ “ngủ gật” đi sớm hoặc đi muộn cả chục phút
trong một ngày. Lại còn một anh khác nữa vớ phải chiếc đồng hồ “trời đánh” chỉ
những giờ phút “theo ý riêng của nó” không giống ai cả…
Sự giáo dục có ảnh hưởng là ở chỗ nó có thể tính và đoán biết chiếc đồng hồ ấy
chạy nhanh hay chậm. Đối với người mà có óc phán đoán chưa mất hẳn, sự giáo
dục có thể nhắc nhở cho họ biết nên đề phòng lối suy luận của họ và nên kiểm
tra nó. Người có giáo hóa nhờ vậy được có một “phương trình” riêng của họ và
họ căn cứ vào đó để sửa đổi những phán đoán tiên khởi.