Cái lương tâm mà thường những sách luân lý hay đề cập đến là một trường hợp
riêng của cái ý thức tổng quát nói trên. Cái lương tâm, tức là cái “ý thức đặc
biệt” này hạn định trong phạm vi những sự trạng có dính dáng đến những huấn
lệnh của giáo dục, của luân lý hoặc tôn giáo. Cái “tiếng nói của lương tâm”
không phải như người ta tưởng, là một bẩm chất riêng biệt của cá tính chúng ta,
là một vị quan tòa độc lập có nhiệm vụ khiển trách những hành động không hay
của chúng ta và khen lao những việc thiện của chúng ta. Nếu thế thì trên đời này
làm gì lại có bao nhiêu người suốt đời không biết hối hận gì? Vị quan tòa độc
lập này phải có trong tất cả mọi người. Không, cái mà người ta cho rằng là
“tiếng nói của lương tâm” thực ra chỉ là sự truy tưởng những huấn điều mà luân
lý, tôn giáo, giáo dục đã uốn nắn chúng ta và nó đã ăn sâu vào cá tính tập thành
chúng ta để trở thành một phần trong toàn bộ cá tính. Nhận xét này rất đúng, vì
ở những người thiếu giáo dục, những người sơ khai và ở những trẻ con làm gì
có “tiếng nói của lương tâm” ấy?
Chú ý giúp chúng ta nhận thức những sự trạng và trí nhớ ghi lại những sự trạng
đã được ý thức ấy.
Như vậy, chúng ta có thể phân biệt hai loại sự trạng có ý thức: những sự trạng
mà chúng ta tri giác và những sự trạng từ trong trí nhớ chúng ta phát hiện trở lại.
Một sự trạng bị xóa nhòa trong ký ức không còn là một sự trạng ý thức nữa.
Hiện tôi đang uống cốc nước, đó là một sự trạng ý thức. Tôi nhớ rằng hôm qua
tôi có uống nước, đó là sự trạng ý thức từ trong trí nhớ tôi phát hiện trở lại.
Tóm lại, trí nhớ là tổng hợp những gì chúng ta đã tri thức, đã thu thập nhờ biết
chú ý và những tri thức ấy đã thâm nhập vào cá tính tập thành chúng ta dưới
hình thức ký ức.
Ý thức không đặng tự trị:
Như chúng ta thấy, ý thức không phải là một giác quan đặc biệt thuộc bên trong
chúng ta, cũng không phải là một quan năng riêng biệt giúp chúng ta nhận biết
những sự trạng tâm lý cũng như thị quan giúp chúng ta nhận biết hình dáng của
sự vật hoặc thính quan giúp chúng ta nghe được những âm thanh. Nhiều triết
gia, nhất là các triết gia thuộc phái “E-cốt” (Ecossais) và sau đó những triết gia
thuộc phái “Chiết trung” (Eclectiques) chủ trương rằng ý thức ở ngoài vòng các
sự trạng tâm lý. Phần nhiều các triết gia thuộc phái duy tâm cho rằng ý thức là