xảy ra cho đến khi Thánh linh của Chúa Trời lướt qua mặt nước. Vì vậy
sự thành hình và chuyển động của vật chất được quy cho Thánh linh
thông tuệ, cho một nguồn năng lượng có ý thức truyền sức sống vào vật
chất, để vô số dạng hình khác nhau của vật chất đến rồi đi, sống rồi
chết.
Vậy nhưng trong thế giới mà ta vẫn biết, có nhiều thứ rõ ràng là
sai, và ta ngần ngại không dám quy những cái sai này cho Tinh thần vĩ
đại đã tạo ra thế giới từ khởi nguyên. Ta không muốn tin rằng sự tàn
bạo, đau đớn và độc ác đến từ chính Căn nguyên và Bản thể Tuyệt đối,
và thiết tha mong rằng Thượng Đế ít nhất thì cũng là tuyệt đích của tất
thảy những gì ta có thể hình dung về sự sáng suốt và công bằng. (Ở
đây, ta không cần đi sâu vào Luận chứng về Tà ác
hoang đường và
vô phương lý giải mà mô hình vũ trụ này tạo ra, chỉ cần lưu ý rằng
nghịch lý này phát sinh từ chính mô hình.) Những dân tộc dựng nên tín
niệm này từng được cai trị bởi tộc trưởng và vua chúa, và các vương
triều hùng mạnh như Ai Cập, Chaldea
Thượng đế là Chúa tể Vũ trụ, toàn thiện về sự sáng suốt và công bằng,
tình thương và lòng nhân từ, nhưng cũng hết sức nghiêm khắc và khắt
khe. Tất nhiên, tôi nói đến một hình ảnh phổ thông về Thượng đế chứ
không dựa theo quan niệm của các nhà thần học uyên thâm của Do
Thái giáo, Cơ Đốc giáo hay đạo Hồi. Là bởi một hình ảnh sống động có
tầm ảnh hưởng lớn đến thường thức hơn là một ý niệm không chắc
chắn.
Tín niệm rằng Thượng đế là một Đấng Cá nhân, “nằm ngoài” hoặc
không thuộc thế giới này, có công làm cho ta cảm nhận rằng sự sống
dựa trên trí tuệ, rằng quy luật tự nhiên tại bất cứ đâu cũng đều khỏi
thủy từ một Đấng Cai trị, rằng ta có thể để trí tưởng tượng vươn xa đến
tận cùng khi hình dung về những phẩm tính siêu việt của Đấng Tối
thượng và toàn thiện này. Hình ảnh này cũng đem tới cho mọi người
cảm thức về tầm quan trọng và thế giới quan. Thượng đế biết rõ từng
hạt bụi li ti nhất và dao động năng lượng nhỏ nhất, bởi chính nhờ sự
toàn giác của ngài mà chúng tồn tại. Sự toàn giác này còn là tình yêu