biết rõ, trước vẻ đẹp giản dị của đất nước với những dòng sông, những màn
sương mù, những đêm sâu thăm thẳm và tiếng lá liễu rì rào bên sông.
Masa vẫn không tài nào ngủ được. Cô mặc áo vào và lên boong tàu.
Sương đêm phủ đầy mọi vật: từ tay vịn cầu thang, lan can tàu có chấn song
sắt đến ghế dài và những chiếc ghế mây.
Có tiếng nói chuyện lầm rầm từ khoang lái đằng sau vọng tới. Một anh
chàng thủy thủ trẻ đang kể chuyện.
-Tớ mới bảo ông lão thế này: "Bố già ơi, bố để lại một tí cho con hút nhờ
với chứ". Ông lão bèn đưa mẩu thuốc còn lại cho tớ. Tớ nuốt một hơi rồi lại
nói với cụ: "Này bố già, vậy chứ ban đêm bố làm gì ở ngoài đồng thế?" "Lão
canh bình minh", ông lão trả lời vậy rồi cười phá lên. "Có thể đó là buổi
bình minh cuối cùng lão được chứng kiến ở trên đời. Điều ấy chú không
hiểu nổi đâu, chú còn trẻ lắm!"
Đám thủy thủ im không nói nữa. Chim họa mi lại cao tiếng hót trong
những rặng cây.
Masa tì tay lên thành cầu. Xa xa trong tăm tối những con gà trống đã cất
tiếng gáy. Ở đằng kia, phía sau màn sương mù, chắc hẳn là một làng quê.
"Gà gáy canh một hay canh hai đấy nhỉ?..." Masa suy nghĩ mà cũng
không biết được gà gáy lần thứ nhất và lần thứ hai là mấy giờ. Cô đã đọc
hàng chục cuốn sách nói về điều đó, nhưng cô đã quên mất cả rồi.
Bà của Masa, vợ góa một thuyền trưởng chuyên chạy đường sông đã
thuyết phục Masa nên đi tàu thủy. Masa hài lòng là đã nghe lời khuyên của
bà. Sau khi đi theo sông Nêva với dòng nước xanh thẳm gần ngả sang màu
đen, con tàu đã xuyên qua hồ Lagôđa, và Masa lần đầu tiên đã nhìn thấy
nước hồ xam xám và những ngọn hải đăng bằng đá trên những mũi đất thấp
trên hồ. Cô đã được thấy con sông Xvirơ hung dữ, những cửa sông ngăn
nước trên sông đào Mariinxki, những bờ sông phủ đầy những bụi rậm nhỏ
và những cây mộc tặc; và tất nhiên là thấy cả những chú bé đứng trên bến
tàu tay cầm những chiếc cần câu cong queo câu cá chép, vẻ mặt trầm ngâm.