Buổi sáng cụ Xêmiôn cưỡi con ngựa Tsalô tới, buộc nó vào chiếc xe ở sân
rồi đi vào nhà
- để chia tay với ngôi nhà. Nhưng cụ đã không phải chia tay với nó. Một
đoàn chiến sĩ đông đúc đi ngang qua nhà. Tất cả đều đội mũ sắt, đen sạm,
đầy bụi bặm và vui vẻ. Cụ Xêmiôn xách ra cổng nhà một xô nước uống.
Masa mang ra chiếc ca.
Các chiến sĩ dừng lại lau mồ hôi, uống nước và kể chuyện đêm qua mặt
trận quân Đức đã bị chọc thủng, chúng đang rút lui, vứt bỏ cả đại bác và tiểu
liên, và bây giờ - hoàn toàn yên tĩnh rồi - có thể đào chiếc hòm lên và sống
bình yên được rồi. Đất của ta quyết không để cho quân Đức chiếm!
Bà Xêraphima cứ khóc mãi, nhìn theo các anh chiến sĩ, nhìn vào đằng
lưng cháy nắng đầy bụi của các anh làm dấu phép như trước đây đã làm dấu
phép cho bố Nikita của Masa. Cụ Xêmiôn lại nổi cáu bảo: "Bà Xêraphima
Petrôpna. Bà chẳng hiểu đúng tí nào cả. Buồn bà cũng khóc, vui bà cũng
khóc, như thế theo tôi không được đâu".
Sau đó những chiếc máy bay bay đến lượn trên các thửa rừng, trên các
nóc nhà, thân lấp lánh, tiếng máy gầm rú đến nỗi những con ong đất trong
vườn nằm ngửa cả người lên và giả vờ chết vì sợ quá. Masa biết rõ quá cái
tính láu vặt của chúng.
Những con sáo tụ lại ở tít trên ngọn cây đoạn đùa nghịch với Masa, làm
rụng cả hoa đoạn, ngửa cổ lên nhìn những chiếc máy bay và kêu ríu rít: "A,
a quân ta, a, a, quân ta...".
Sáng hôm sau một anh chiến sĩ tay buộc băng bước vào sân ngồi xuống
bên bậc tam cấp, bỏ chiếc mũ sắt ra và nói:
- Xin bà con cho phép chiến sĩ cận vệ bị thương ngồi nghỉ nhờ một lát. Bà
gọi anh chiến sĩ vào nhà, đưa anh đến bên bàn.
Anh đi lại trong phòng, nhẹ nhàng nhấc đôi ủng. Căn phòng lập tức xực
lên mùi bánh mỳ mùi thuốc và ngải cứu.
Anh chiến sĩ xin lỗi vì đã làm rơi vụn bánh xuống sàn nhà, anh ăn bằng
một tay nên lúng túng. Masa cắt bánh và thức ăn cho anh ăn. Bà hí hoáy đun