PARI CHỐC LÁT
Tôi ở đây chỉ có ba ngày trong số hai vạn bốn nghìn ngày tôi sống trước
kia.
Mùa thu năm 1956 cả thế giới xao xuyến hẳn lên. Những cuộc chiến tranh
do dự và lập lờ nổ ra rồi lại tắt. Những hàng không mẫu hạm và khu trục
hạm Mỹ Anh đi ngang tàu chúng tôi về phương đông, hướng Po- Xait
nói chuyện với nhau bằng đèn hiệu. Các trạm hàng hải bên bờ nhấp nháy lửa
điện hỏi lũ tàu kia đi đâu và treo cờ nước nào. Ban đêm tiếng ì ầm chân vịt
tàu biển vẳng đến, lúc thì ở mạn phải lúc thì ở mạn trái.
Cứ như vậy cho đến khi chúng tôi ra tới Đại Tây Dương và rẽ lên phương
Bắc, dọc những bờ biển Bồ Đào Nha. Đại Tây Dương hoang vắng hơn Địa
Trung Hải rất nhiều.
Bóng tối treo lơ lửng trên cao nguyên phún thạch Bồ Đào Nha. Giữa cao
nguyên đột khởi lên những thánh đường, pháo đồn và lâu đài hùng vĩ.
Chung quanh những tòa nhà cổ kính ấy là hoang vắng. Từ trên boong, suốt
một ngày chúng tôi chỉ bắt gặp vài chiếc xe con làm tung bụi giữa những
hàng rào và một chiếc tàu hàng cũ rích chạy đường duyên hải.
Chắc hẳn con tàu đó đi từ Litxabon qua các thành phố nửa thức nửa ngủ
miền ven biển. Nó chòng chành trên sóng như một chiếc thùng gỗ. Khói
đậm đặc phả ra từ ống khói hẹp và cao như cột điện báo.
Đến khi trời tối thì chỉ còn trông thấy những đốm lửa hải đăng. Chúng
đón tiếp và tiễn đưa chúng tôi một cách chậm chạp và đều đặn. Khi đốm lửa
ở một nơi nào đó trên mũi Thánh Vixăntê vừa biến đi thì lập tức ở chân trời
nước réo đã lại hiện lên ánh sáng của một ngọn hải đăng ở một mũi khác, xa
hơn.
Suốt đêm tôi nằm trên chiếc ghế bố đã được đẩy vào một góc mà không ai
có thể nhận thấy được trên sàn xuồng
. Thỉnh thoảng tôi nghe thấy sau
lưng mình tiếng bước chân của người gác đêm.