Trong đêm đó tôi đã hình dung được một cách hết sức rõ ràng rằng ba
ngày nữa, lần đầu tiên trong đời tôi sẽ thấy Paria. Cuối cùng tôi đã tin ở điều
đó và tim tôi bắt đầu đập một cách nặng nhọc.
Suốt đêm tôi cứ nằm trong một cảm giác đê mê kéo dài và khoan khoái,
không đủ sức để cử động cánh tay.
Tôi buộc tôi phải trở dậy lúc bình minh. Cả con tàu ướt lướt thuớt mưa
phùn của sương đại dương. Quần áo tôi cũng ướt đẫm.
Tôi quay về căn phòng tối.
Con tàu bắt đầu lúc lắc một cách chậm chạp và kéo dài: chúng tôi đã vào
vịnh Gaxcônhơ nơi sóng to gió cả nhất hạng của đại dương.
Tàu lắc suốt ngày hôm sau. Nhưng đến chiều tối, những con hải âu xuất
hiện và thuyền trưởng loan báo qua trạm truyền thanh của tàu cho hành
khách biết rằng từ mạn phải đã nhìn thấy ánh đèn của đảo Uétxan. Điều đó
có nghĩa là khu vực nguy hiểm nhất của Đại Tây Dương đã rớt lại đằng sau
và cuối cùng hành khách đã có thể thôi không cần phải lo lắng nữa. Mà lo
lắng thì hầu hết mọi người đều lo lắng sau khi phải nghe quá nhiều chuyện
về những cơn bão đột ngột và ghê gớm của vịnh Gaxcônhơ.
Đêm trôi qua một cách cực kỳ êm ả. Từ những cửa cabin hé mở (cửa
cabin được đóng chặt bằng những tay vặn mạ kền để khỏi sập lại mỗi khi có
gió lùa ngoài biển) nghe rõ hơi thở của hành khách và tiếng rì rì ngái ngủ
của quạt máy.
Cô phục vụ trực nhật ngồi co hai chân lại trên chiếc đi- văng bọc nhung
xám bên cạnh thang dẫn lên boong, đọc "Con bê vàng" của Infơ và Pêtrốp
thỉnh thoảng lại cười khúc khích.
Sáng ngày ra, một màn sương tan tác đến trong suốt từ đại dương đã kéo
đến. Chúng tôi đi ngang những chiếc thuyền có thắp đèn chiếu trên cột
buồm trong màn sương ấy. Một con tàu sơn trắng bực bội giằng giật những
giây neo. Bên mạn tàu đen lên một hàng chữ lớn "Lơ Havrơ". Đó là hải đăng
nổi của vũng Lơ Havrơ.