niệm bằng ông. Ấy là Pơti Pierơ đã sẵn sàng lấy tuốt tuột bất cứ vật gì, cả
đến những chiếc vé xe điện ngầm Maxcơva bỏ đi trong túi áo chúng tôi.
Nhờ Pơti Pierơ mà chúng tôi biết rằng ở đâu đó trong những thành lũy
thời nông nô ("foóctificaxiông", theo cách gọi như hát của Pơti Pierơ) có
một quán cà phê rẻ tiền, ở đấy người ta đổi chác đồ lưu niệm và giá cả đổi
chác được quy định dứt khoát. Thí dụ, một chiếc vỏ diêm có hình ga xe điện
ngầm Acbát có thể đổi lấy ba chiếc có hình ga "Aêrôpo", còn như bưu ảnh
có hình vua Thần công
có thể đổi lấy một huy hiệu có biểu tượng thành
phố Pari.
Người ta dùng Pơti Pierơ trong khách sạn, hẳn cũng chỉ để cho nó thêm
phần nhộn nhạo. Cậu ta hoàn toàn không có việc gì để mà làm. Cái cabin
thang máy bằng thủy tinh nhiều cạnh giống một cái ly rượu, trang điểm một
cách hào nhoáng bằng đồng đen, chỉ chứa nổi một người, mà phải là người
gầy mới được. Muốn bước vào trong đó cần phải thu người lại, đi giật lùi,
tay nắm lấy những mấu nối, nếu không thì không thể nào quay trở trong đó.
Như tay Hà Lan nọ là không tài nào dùng được thang máy. Ông không sao
lách được tấm thân đồ sộ của mình trong đó. Nhưng chuyện ấy không làm
ông tức giận mảy may.
Vì thế công việc Pơti Pierơ chỉ quanh quẩn ở chỗ đưa cái thang máy
không người từ trên xuống và phá lên cười ha hả vì bất cứ cớ gì. Mà cớ để
cho cậu ta cười thì khá đủ.
Thí dụ, một anh trong bọn người Nga chúng tôi ngay tối đầu tới Pari đã
lang thang ngoài phố đến tận khuya mệt phờ và ngủ thiếp đi trên một chiếc
ghế dài ngoài đại lộ gần cổng Xanh- Đơni.
Một "agiăng"
già dũng cảm đã mang anh ta về khách sạn lúc bốn giờ
sáng. Nếu không, anh chàng Nga ấy sẽ có thể lạc suốt đời, như Pơti Pierơ
nói. Thực là một hiện tượng không tiền khoáng hậu.
Viên "agiăng" còn bàn luận hồi lâu với anh gác cửa Mã Lai về chuyện vừa
xảy ra, trong khi đó thì anh chàng Nga đã ngủ khì trong phòng mình.