rạng rỡ hẳn lên vì những chiếc khuy vàng và hai hàm răng trắng bóng, giống
như vị thần ái tình nhỏ bé trong những bức tranh hồng của Guy đô Rêni.
Nhìn chúng tôi một cách đắc thắng, cậu ta thông báo về một hạnh phúc
thần tiên đã rơi xuống đầu chúng tôi ở Pari: hai thiếu phụ Nga đẹp như
Djina Lôlôbrigiđa
muốn gặp chúng tôi và họ đang đợi ở dưới.
Căn cứ vào giọng nói trong một số câu của Pơti Pie, chúng tôi hiểu rằng
cậu ta không coi chúng tôi là xứng đáng được làm quen với hai thiếu phụ kia
và hẳn cậu ta băn khoăn vì bề rộng của những ống quần Xôviết. Nhưng sau
khi nhìn quần chúng tôi, cậu ta yên tâm và thậm chí còn ca một đoạn trong
một bài hát nào đó.
Cần phải nói rằng bề rộng của những ống quần Xôviết được tất cả các báo
phương Tây, từ Xtămbun cho đến Xtôkhôn, bàn cãi một cách sôi nổi và kiên
trì.
Chúng tôi xuống hall bằng thang thường (thang máy hẳn bị lây sự xúc
động của Pơti Pie nên đã lập tức mắc ngẵng ở tầng bốn). Pơti Pie đi trước
chúng tôi như một quan chức lễ tân. Ở tầng ba cậu ta gạt nụ cười khỏi khuôn
mặt. Ở tầng hai bộ mặt cậu trở nên tự cao tự đại như mặt của một tay gác
cổng đường bệ nhất Pari ở khách sạn "Ritxơ".
Hai thiếu phụ Nga đứng lên đón chúng tôi. Cả hai người là hiện thân của
một sự bối rối kiều diễm. Họ là hai người lưu vong, chị em con chú con bác,
bị mang đi khỏi Tômxkơ lúc mới lên ba. Cả hai đã được cấp hộ chiếu Liên
Xô từ lâu và làm việc tại một nhà xuất bản Pari chuyên ấn hành sách nghệ
thuật.
Qua báo chí, họ biết tin các nhà văn Liên Xô đến Pari và họ tới xin chữ ký
vào những cuốn sách của chúng tôi.
Cả hai, nhất là người chị, bà Liđia Nicôlaépna Đêlektôrakaia, nói tiếng
Nga rất hay. Tiếng Nga họ nói trong sáng, như hát và điều đó lúc đầu làm
chúng tôi hơi ngượng. Chúng tôi đã mất thói quen với cái tiếng nói như thế.
Chúng tôi cảm thấy nó du dương quá. Chúng tôi không biết cách nói như
vậy.