Cùng với bà chúng tôi uống thứ cà phê đặc nhất trong những quán cà phê
nhỏ bé của thợ thuyền. Cùng với bà, chúng tôi đứng bên Khải hoàn môn, nơi
ngọn lửa xanh từ dưới đất phụt lên bên trên thi hài người lính vô danh (bao
giờ tôi cũng có cảm giác rằng người lính đó là bạn chiến đấu của Hăngri
Bacbuyxơ
trong cuốn "Lửa" của ông).
Cùng với bà, chúng tôi hưởng hơi lạnh nhẹ nhàng dưới mặt đất trên mộ đá
của Napôlêông đẽo bằng vân ban thạch carêli trong Cung Thương binh.
Cùng với bà, chúng tôi can ba đứa bé đánh nhau trong một công viên gần
Sapen. Những bộ mặt xây xát của chúng bừng bừng cơn giận của cuộc đánh
nhau chí tử. Như những người Pháp và những chàng kỵ sĩ chân chính của
thời đại Rôngxa
chúng kiểu cách nói với Liđia Nicôlaépna: "Vâng, thưa
mađam!". "Xin mađam tha lỗi" và giải tán ngay về mọi ngả nhưng vẫn còn
giơ nắm đấm dọa nhau một lần cuối.
Ở Pari thiếu gara. Xe hơi sống ngay ngoài phố.
Cảnh tượng hàng nghìn vạn xe hơi nằm ngủ ngoài đường, không chỗ trú,
không hiểu sao cứ gợi lên một nỗi lo âu thầm kín, như thể ngay giờ đây,
đang đêm, có thể nổ ra chiến tranh hay một cuộc tấn công của phi cơ, và
những chiếc xe đang chuẩn bị chạy trốn. Nhưng chạy cũng vô ích. Không
còn chỗ nào mà chạy nữa. Bom nguyên tử đã nén trái đất lại chỉ còn bằng
quả táo.
Ở phố Rivôli, cùng với bà, chúng tôi ngắm viên cảnh sát có tuổi, đầu hoa
râm - người điều khiển xe cộ ngoài phố. Viên cảnh sát đứng ở ngã tư. Những
dòng xe - những con sông chớp sơn bóng - lao vùn vụt cách ông ta độ năm
phân, nhưng ông ta vẫn ngủ đứng một cách bình thản, cái đầu mệt mỏi đội
mũ kêpi xanh gục xuống ngực.
Chúng tôi cùng ngồi với bà trên bờ sông Xen và nhìn Pari mặc quần áo
ấm trong buổi tối sắp xuống. Chiếc tàu dắt luôn luôn rúc còi kéo ngang
chúng tôi những xà lan vàng tươi như bầu trời hoàng hôn.
Một em bé gái với riềm tóc nâu trước trán mời chúng tôi mua những bông
hoa gần tàn ấm hơi tay nó. Chúng tôi mua và tặng lại Liđia Nicôlaépna. Bà