quay mặt đi và một giọt nước mắt nhỏ bé lăn trên chiếc ví da láng của bà.
Bà im lặng. Nước sông Xen thoang thoảng mùi tươi mát của lá liễu, như
trên sông Ôka. Và rồi khi chúng tôi đi trong bóng tối rậm rạp của chiều hôm
trên đường bờ sông, Liđia Nicôlaépna cũng im lặng, và những bông hoa
nghèo khổ - hoa của những khu ngoại ô bần hàn và những sân sau - run lên
trong tay bà.
Tối hôm đó chúng tôi rời Pari. Một người trong bọn chúng tôi nói một
cách bâng quơ rằng, chúng tôi đã được thấy nhiều điều ở nước Pháp, nhưng
thế là cuối cùng chúng tôi vẫn chưa kịp xem một người Pháp bình thường
sống như thế nào.
- Tôi sống cũng đại loại như họ. - Bà Liđia Nicôlaépna nói sau một lát im
lặng và mời chúng tôi đến chơi nhà. - Chỉ có một điểm là khác.
Chúng tôi thuê tăcxi và phóng trên những đại lộ qua nhà thờ Mađơlen với
những hàng cột quen thuộc qua tranh vẽ, qua tòa nhà Grăng Opêra
như một cái bánh gatô với những sừng cuốn bằng kem đã rắn lại thành đá,
qua những cầu trong ánh hào quang của những ngọn đèn chạy qua chạy lại
và lúc nào cũng bị chậm, qua lề đường công viên Luychxămbua thở hơi mát
lạnh của những vòm lá ồn ào vào trong cửa chiếc xe đã bị hun quá nóng, để
rồi cuối cùng đỗ lại trước một ngôi nhà bình thường của Pari với chiếc cầu
thang hẹp và một thiếu phụ trẻ gác cửa. Cô ta lập tức xoáy chặt đôi mắt sắc
sảo vào chúng tôi.
Trong căn nhà ở, các phòng được sắp đặt trên những mức cao khác nhau.
Chúng tôi bước vào và thấy mọi cửa sổ đều để ngỏ, mặc dầu trong nhà
không có ai, ngoài một con mèo đen. Thì ra những cửa sổ cứ để ngỏ như thế
suốt mùa hè.
Những cơn gió ấm lang thang trong các phòng.
Liđia Nicôlaépna bật công tắc đánh tách. Chùm đèn rực sáng và tôi bất
giác kêu lên: tường phòng treo kín những bức tranh tuyệt đẹp, nét vẽ mạnh
dạn và trong sáng như nét vẽ của một họa sĩ bậc thầy, mặc dầu chúng tôi
chưa biết đó là ai.