người ta giao cho ông trách nhiệm phục vụ cảng.
Ở cảng, ông biết từng bến đỗ bằng gang. Ông quen hết thảy những người
gác cảng. Ông kể lại rằng từ thuở còn thơ cảng Ôđetxa đã là mối tình duy
nhất của ông.
Lúc nào rỗi ông lang thang ngoài cảng. Cảng đối với ông là cả thế giới.
Nó gợi lên những dòng tình cảm riêng biệt, kích thích
trí tưởng tượng, ồn
ào những chân vịt và lấp lánh ánh vàng những ống khói tàu.
Lôvengarđơ mang đến tòa soạn những mẩu tin viết bằng những chữ to
tướng như chữ trẻ con về những con tàu cập bến. Ông khoái những tên tàu
và ghi những tên đó vào một cuốn sổ riêng.
Tôi đã được biết qua cuốn sổ tay của ông. Bên cạnh tàu "Đuymông
Đuyêcvin" là tàu "Ginbe" và bên "Ked’Ellen" là chiếc thuyền buồm "Ba anh
em".
Như một đứa trẻ và một người rừng. Lôvengarđơ coi những con tàu như
những con vật có hồn. Ông nói rằng Đuymông Đuyêcvin là một con tàu có
thân hình cân đối và tính tình nông nổi chỉ vì sự bất cẩn của những tay thợ
đốt lò mà trở thành đen đủi.
Ông già nghèo khổ ấy đã chất lên chung quanh những con tàu không biết
bao nhiêu sự kiện không người biết đến, không biết bao nhiêu chuyện bịa
đặt và mối lo âu, đến nỗi cuối cùng ông đã làm cho cả tòa soạn lây bệnh của
ông. Cuộc đời mà không có những con tàu, đối với chúng tôi, tưởng như mất
ý nghĩa. Lôvengarđơ cả quyết rằng biển cách mạng con người còn hải cảng
là hiện thân cho sự giàu có và tự do.
Lôvengarđơ qua đời vào một mùa đông, khi sương mù và gió xám đang
ngự trị trên Ôđetxa. Ông xách một xô nước về phòng mình trên gác ba, ngã
xuống và chết, không kịp nói, không kịp kêu lấy một tiếng. Chỉ có tiếng xô
nước ầm ầm lăn trên bậc thang báo tin cho những người trú ngụ trong ngôi
nhà tồi tàn nọ biết cái chết của ông già kỳ quặc Lôvengarđơ.
Trong phòng Lôvengarđơ, người ta thấy một chiếc giường với một chiếc
nệm đã cũ đến nỗi trở thành mỏng dính
, một chiếc ghế, một chiếc bàn