người tan vỡ và sự hòa giải diễn ra đau đớn và chậm chạp. Đến chết Lêvitan
cũng không tha lỗi cho Tsêkhôp vì truyện ngắn đó.
Lêvitan cùng Kupsinnikôva đáp tàu tới Riadan, từ đó họ xuống tàu thủy
xuôi dòng Ôka đến trấn Tsunkôvô. Ông quyết định dừng lại ở trấn này.
Mặt trời xuống trên những cánh đồng làng sau vườn đồi đất sét. Những
đứa bé đuổi những con chim bồ câu đỏ màu hoàng hôn. Trên đồng cỏ bờ
sông có những đống lửa cháy, trong các đầm lầy những con vạc kêu rầu rĩ.
Ở Tsunkôvô có tất cả những gì làm cho dòng Ôka trở thành nổi tiếng - tất
cả vẻ đẹp kỳ diệu của dòng sông này, "con sông tràn đầy nước lũ mùa mưa
với đôi bờ là những cánh rừng sồi rậm rạp và trong khoảng rộng mênh mông
của những bãi cát ở Murômxkơ nó chảy nhịp nhàng đường bệ, lấp lánh giữa
đôi bờ uy nghi". Không gì có thể truyền đạt vẻ đẹp của dòng Ôka lười biếng
hơn là những vần thơ của Iadưkôva
Ở bến Tsunkôvô, một ông lão thấp bé chột mắt đến gần Lêvitan. Ông lão
nóng nảy nắm lấy ống tay áo đũi của Lêvitan, kéo lại gần và lấy những ngón
tay xù xì mân mê hồi lâu.
Ông ơi, ông làm gì thế? - Lêvitan hỏi.
Vải của ông. - Ông lão nói và ợ một cái.
Lão muốn ngắm vải của ông thôi. Nó kêu xào xạo như tóc đàn bà vậy.
Còn bà kia là ai, xin Chúa tha tội, có phải vợ ông không? - Ông lão chỉ
Kupsinnikôva, đôi mắt bỗng trở nên dữ tợn.
Vâng, vợ tôi. - Lêvitan trả lời. - Ra thế? - Ông lão độc ác nói và bỏ đi. -
Có quỷ sứ biết các người lang thang khắp nơi thế này để làm gì.
Cuộc gặp gỡ không báo trước điều gì tốt lành.
Sáng sau, khi Lêvitan cùng Kupsinnikôva ngồi xuống sườn đồi, vừa mới
mở hộp màu ra thì trong làng bắt đầu nhốn nháo. Những mụ đàn bà te tái từ
nhà nọ sang nhà kia. Những người đàn ông cau có, đầu tóc dính đầy rơm,