Kiprenxki hiểu rằng tình bạn lung lay vì xa cách. Nhớ lại quá khứ, ông
chỉ thở dài, hoặc dửng dưng, buồn chán.
Chỉ có những thửa vườn, sông Nêva và bầu trời vẫn như xưa. Tình bạn
của chúng là mãi mãi, là không gì chia xẻ được. Nó không đòi hỏi phải đáp
lại.
Kiprenxki làm việc, nhận được các đơn đặt hàng xứng đáng, vào hoàng
cung vẽ lại từ bức tượng của Torvanxen, hoàng đế Alêchxanđrơ đệ nhất vừa
quá cố, thỉnh thoảng một người đỡ đầu và bạn bè lại đến thăm.
Nhưng thời xưa đâu còn nữa. Mắt đã mờ đi luôn lộ vẻ lo lắng, giọng nói
yếu hơn. Sáng dậy họa sĩ nằm trên giường hàng giờ liền, không suy nghĩ gì,
không nghe ngóng gì.
Có khi vừa bôi lên vải màu xám hay màu hồng sữa và hầu như không
nhận ra màu chết lặng, Kiprenxki đột nhiên ném bút xuống sàn như một
người điên chạy ra phố. Ông đi, không còn biết ai ở chung quanh, về vùng
ngoại ô thành phố, nơi những căn nhà gỗ tối tăm đã mục ra trong sương mù
và đến đêm mới trở về.
Trong thời gian đó thỉnh thoảng cuộc sống chung quanh ở Pêterburg lại có
gì đó gợi nhớ tới Italia. Niềm nhớ tiếc không khí trong sáng, những hàng cột
tròn cổ kính nóng ấm ánh mặt trời và mùi hoa nhài luôn luôn và luôn luôn
làm trái tim đau đớn âm thầm. Với vẻ kiên trì đến khó hiểu, Kiprenxki cho
các bạn bè xem những bức tranh vẽ ở Italia và đòi hỏi lời khen ngợi. Tất cả
những gì đã làm được ở Italia ông đều thấy là tuyệt mĩ. Bạn bè nhăn mặt,
nhún vai ngơ ngác.
Kiprenxki vẽ chẳng hay mà cũng chẳng dở, một cái gì đó đã tắt đi ở bên
trong. Một lần Berkenđor cử người đi tìm ông. Bá tước muốn Kiprenxki vẽ
những đứa con của lão.
Kiprenxki tặc lưỡi đồng ý. Lúc này ông mặc tất, muốn vẽ ai cũng được -
dù là Puskin, Berkenđorf, Kukhenbeckerơ hay Arađseep. Sự thối trí của
mình Kiprenxki cố tình che đậy bằng cái tính xốc nổi bên ngoài và cố không