BÌNH NGUYÊN TUYẾT PHỦ
Tuyết bắt đầu rơi từ chiều tối và đến đêm thì đã trắng xóa cả bình nguyên.
Đại dương đẩy những bọt sóng dài lên bãi cát. Năm qua tháng lại sóng ầm
ì không mỏi và Alan đã quen với tiếng sóng đến nỗi chàng không còn để ý
đến nó nữa. Ngược lại, sự yên lặng ở chung quanh lại làm chàng ngạc nhiên.
Chàng có cảm giác như cùng với tuyết, yên lặng đang từ trên trời rơi xuống.
Tuyết lạnh và những tấm kính cửa sổ thẫm màu phản chiếu hình ngọn
nến. Hẳn từ tít tắp ngoài đại dương, nơi chiếc xuồng đánh cá đang vật vã với
sóng, người ta cũng có thể nhìn thấy ngọn nến. Và những dân chài nhìn
ngọn lửa yếu ớt nọ, hẳn phải nghĩ đến cái chảo đang sôi trên bếp và cái
giường không ướt nước.
Alan nhếch mép cười. Lại vẫn cái sự tự dối mình, lại vẫn cái ngây thơ của
những hy vọng và mơ ước! Giá mà họ, những người dân chài ấy, lại đỗ vào
bờ mà vượt bình nguyên để đến nhà chàng thì tốt biết mấy! Họ sẽ nhìn thấy
g ở đây? Căn phòng trống rỗng, ngọn nến, chiếc giường lính và tro lạnh
trong lò sưởi. Và Alan, chàng quấn chiếc khăn rách, người rét cóng và buồn
bã đến nỗi không thể cất lời. Bởi vì Alan cô độc, không có ai cô độc như
Alan. Cả con chuột lục xục trong đống tro kia cũng hạnh phúc hơn chàng.
Nó là con chuột nhắt xám và vui tính, còn chàng là nhà thơ vĩ đại và không
ai cần tới của châu Mỹ, của đất nước rộng lớn, nơi mùa đông dài dằng dặc
này đang bắt đầu.
Thường họ thích lý sự về hạnh phúc. Nhưng không ai hiểu rằng hạnh
phúc lớn nhất là sự hiểu nhau. Alan không thèm muốn vinh quang, không
mong yên tĩnh. Chàng chỉ muốn có một điều là sao cho người ta hiểu rằng
trí tưởng tượng của chàng, tài làm vui cho mọi người của chàng đủ dùng cho
hàng nghìn người chứ không phải chỉ vài ba.
Chàng muốn cho người mãi mãi. Chàng càng cho bao nhiêu thì lại càng
giàu thêm.