lật cỗ áo quan lên nhưng anh đã kiệt sức. Anh mở cỗ áo quan ra, gói xác bạn
vào một tấm vải bạt anh vẫn dùng để che đêm. Rồi anh buộc cái bọc vào tấm
biển hiệu của Gus, bản thân nó sương gió đã tàn tạ, chữ viết bên trên mờ gần
hết. Anh hạ một cây sồi nhỏ đẽo tạm thành trục xe, cắm tấm biển hiệu vào
giữa hai bánh xe. Nó là một cái xe trượt thì đúng hơn một cỗ xe kéo, nhưng
nó đi.
Vết thương ở sườn nhẹ nhưng bắt đầu làm phiền anh. Anh lên cơn sốt,
mơ màng thấy da dỏ nấp sau những bụi yucca, thấy những người cưỡi ngựa.
Một lần thấy Deets và một lần Vịt Biếc. Anh trách Gus về tất cả sự rắc rối
này. Cả đời Gus chỉ tìm cách đưa anh vào những tình thế lôi thôi, và đều đưa
được.
Jake nó đưa tớ đi còn cậu thì đưa tớ về, có lúc anh to tiếng nói một
mình.
Ngày thứ ba nước hết. Lừa và ngựa đều oải. Rồi con lừa, con Láng Mỡ
quyết định không đi nữa mà lăn ra chết. Anh phải cho con ngựa kéo cỗ xe.
Và không ngờ nó đến được Colorado. Sau đây thì không sợ nữa rồi, tuy vết
thương của anh chảy mủ, làm cho anh nhớ tới Lippy. Đôi khi nghĩ đến đám
trẻ trên kia, anh lại ứa nước mắt.
Lúc Call đến được quả đồi nho nhỏ với bụi cây sồi trên sông
Guadeloupe, tấm biển đã gần như hỏng. Dòng ngạn ngữ La Tinh mà Gus
hãnh diện thì đã vỡ rơi từ lâu. Chỗ nói về lợn không còn, kể cả chỗ nói họ
cho thuê gì và bán gì cùng với tên Deets cũng vậy. Anh toan cố lấy chỗ có
tên Gus nhưng dây thừng cọ đã mờ cả, tấm biển hiệu rút cục chỉ là những
mảnh ván ghép. Phía trên cùng chỉ dòng chữ Công ty Gia súc và điếm
thương nghiệp cho thuê ngựa Hat Creek là còn đọc rõ.
Call đào huyệt bằng cái xẻng con. Mệt, anh phải đào gần hết ngày và
anh đặt xác Gus xuống đó.
— Đấy, – anh nói. – Việc này sẽ dạy tớ thận trọng hơn khi hứa cái gì
đấy.